
Nhạc nền:
"Trưng Vương"
Thơ Lê Nguyên Tịnh, nhạc Phạm Quang Ngọc
HỎI ĐẢNG BÙ NHÌN
Bài Xướng
Tầu đỏ ngang nhiên lấn biển Đông,
Khiến bao người Việt xót xa lòng.
Sớm hôm trắc ẩn tình dân tộc,
Ngày tháng quan hoài nghĩa núi sông.
Xưa bởi Hồ, Đồng dâng hải đảo,
Nay vì Trọng, Dũng hám hơi đồng.
Âm mưu Hán hóa toàn dân Việt,
Hỏi đảng "Bù Nhìn" có biết không???
Từ-Phong
ĐỒNG THANH TƯƠNG ỨNG
Là Bài họa 20
của thi hữu Từ Phong
đa tạ tất cả qúy thi hữu đã hưởng ứng
góp hoạ bài "Hỏi Đảng Bù Nhìn"
Bốn phương Thi hữu họa vần đông
Trắc ẩn cùng chung một nỗi lòng
Phản kháng Bắc phương xâm biển đảo
Ngăn ngừa bành trướng lấn non sông
Dùng thơ chống giặc, tâm nào khác
Mượn bút trừ gian, ý vẫn đồng
Đa tạ bạn bè cùng chí hướng
Đấu tranh cứu nước, chẳng ngồi không.
07-28-2011 TỪ PHONG
Kính mời Quý Vị cùng đọc và suy
gẫm về loạt bài xướng họa bên dưới cùng với các hình ảnh toàn dân
Việt Nam vùng dậy phản đội giặc Tàu
và bè lũ tay sai bán Nước "Đảng
Cộng Sản Việt Nam"

Hải Quân Thiếu Tá QLVNCH Ngụy Văn
Thà
(ảnh BTTM/QLVNCH)

Bài Họa
19
Diệt Hán Tặc Cứu Non Sông
Kính họa bài “Hỏi Đảng Bù
Nhìn” của Từ Phong
Toàn Dân vùng dậy giữ Biển Đông.
Nam Bắc đồng tâm quyết một lòng;
Gái tú hô vang tru Hán Tặc.
Trai thanh réo gọi cứu Non Sông!
Sĩ phu, nghệ sĩ đà bài Đảng,
Già trẻ, thơ nhi đã tố Đồng;
Một lũ gian manh Hồ, Mạnh, Dũng…
Quê Hương đem bán, hổ ngươi không!?
Joseph Duy Tâm, 28-07-2011
=======================

Bài họa 1
Bù Nhìn, lũ Cộng hiểu hay không?
Sao vẫn u mê hám của-đồng?*
Giữ đảng, sẵn sàng dâng biển đảo,
Gìn hồng, đâu ngại bán non sông!
Trai Nam Hưng-Đạo: luôn bền chí,
Gái Việt Trưng-Vương: mãi vững lòng.
Gióng trống Hà-Hồi, nêu đại nghĩa,
Diệt thù danh rạng cõi trời Đông???
Lệ-Khanh
=======================

Bài họa 2 ÐÚNG HAY KHÔNG
Việt Nam đợi mãi một vừng Ðông Mấy chục năm trôi thổn thức lòng Cộng vẫn giam cầm dân với nước Tàu còn xâm chiếm núi cùng sông Mong người Nguyễn Huệ vung gươm thép Ðợi khách Trưng vương phóng đạn đồng Tổ Quốc không về tay giặc đỏ Phải do tranh đấu đến cùng không ?
Ngô Minh Hằng

Bài họa 3 AI YÊU TỔ QUỐC
Giặc Tàu xâm lấn đã bao Ðông Cắt đất là như cắt nát lòng Em bé biểu tình đòi lại biển Cụ già phản đối lấy về sông Giết dân, Dũng - Triết mua roi sắt Bán nước, Hồ - Chinh đổi súng đồng Chúng biến Việt Nam thành Hán địa Ai yêu tổ quốc tủi hờn không ???
Ngô Minh Hằng =======================

Bài họa 4
LẠ LÙNG
Xấc xược Tàu phù xuống
biển Đông, Làm người dân Việt thấy đau lòng. Hôm nay lấn át từng sào đất Mai mốt tranh dành cả khúc sông. Khờ dại Đảng ta buôn sắt thép Ngu đần Nhà Nước bán nhôm đồng, Núi sông biển đảo còn đâu nữa. Non nước Tiên Rồng mất, lạ không?!
Trịnh Cơ. 24/6/2011 =======================

Bài họa 5 Hèn với giặc
Mối thù phương Bắc ngập trời Ðông Tổ phụ đồng tâm dốc một lòng Hội nghị Diên Hồng thề quyết chiến Bạch Đằng phá địch rạng tên sông Đống Đa trống trận tan hồn Đống Nhượng đảo ngày nay ký Phạm Đồng Một lũ quân gian hèn với giặc. Có còn liêm sỉ để đâu không.
Uyên Quang , 6-24-2011 =======================

Bài
Họa 6 1- ĐẸP MẶT
Nước ta Hồ bán đã nhiều Đông. Hý hửng Tàu mua đã thoả lòng! Lưu xú vạn niên mua chức hão, Ô danh muôn thuở bán non sông. Sơn hà gấm vóc do xuơng máu, Xã tắc tanh banh bởi bạc đồng. Đẹp mặt cộng Hồ cùng hậu duệ, Soi gương mặt mũi giống người không?
Dzoãn Thường, Pasadena, 24-6-2011

Bài Họa 7 2- PHẢN QUỐC
Biên giới bán rồi tới biển Đông, Con dân nước Việt quá đau lòng Tàu phù hý hửng chiếm thêm biển, Việt cộng thản nhiên hiến núi sông. Cõng rắn cắn gà mất sạch vốn Nuôi ong tay áo được dăm đồng Việt gian bán nước vẻ vang nhỉ! Phản quốc theo Tàu có nhục không??
Dzoãn Thường 24-6-2011 =======================

Bài Họa 8 Vùng lên
Hồng quân giặc Bắc quậy phương Đông Xích qủy nước Nam chẳng xót lòng Con Cháu Triệu, Trưng: Gìn lảnh hải! Giống nòi Trần, Nguyễn: Giữ non sông! Vùng lên lật đổ phường hồ cộng Đứng dậy đánh tan lũ cáo đồng Kìa bọn Việt gian đang bán nước Hỡi người yêu nước biết hay không?
Hương Saigon kính họa (24/06/2011) =======================

Bài
Họa 9. 10. 11
(3 bài họa của Lê Thị Việt Nam):
1. Việt Nam Coi Vậy Khó
Xơi.
Người chờ kẻ đợi hướng vừng Đông: Hạm Mỹ Cam Ranh thảy nức lòng... Việt Cộng lưỡng nan ngùi thế nước! Tàu phù kế hoạch ngoạm non sông! Mc Cain khuyến cáo tầm quan ngại... Jim Web thoáng thông ý hội đồng... Tưởng bở, Việt Nam như món hóc: Nuốt vào mắc nghẹn chết như không!
Lê Thị Việt Nam

Bài Họa 10 2. Tàu Cộng Ngậm Phải Lưỡi Bò
Ý rằng mình xưng bá phương Đông! Bức hiếp, dọa đe tưởng khiếp lòng... Trái khuấy...lưỡi bò thèm manh động! Máu hùa độc diễn chiếm non sông... Vết đời thắc thỏm chưa nguôi hận... Ranh giới gian ngoa muốn đại đồng! Lợm giọng phân bua đâu chứng lý? Mép mồm liếm láp hết nhơ không?
Lê Thị Việt Nam


Bài Họa 11 3. Danh Thắng Cam Ranh,
Cam Ranh rạng rỡ mặt trời Đông! Tương đắc chờ nhau...vốn giữ lòng: Nga muốn vầy duyên chưa gửi phận! Mỹ nhìn phải bụng... ngại non sông! Con Hồng sử mệnh buồng gan thép... Cháu Lạc kinh luân trách nhiệm đồng! Cung kiếm, giáp vàng noi khí phách... Tàu phù dọa dẫm chói tai không?
Lê Thị Việt Nam =======================

Bài Họa 12 Hãy tự cứu lấy quê hương
Ly hương trốn giặc bỏ trời đông Nhớ thuở vượt biên tan nát lòng Cộng sản vào Nam gieo hãn hãi Buôn dân rồi cống hiến non sông Thế nên giải thể toàn quân cộng Hãy nhớ đừng quên tích trụ đồng Dân Việt hùng anh giành lại nước Ngồi than trời đất cũng bằng không !
Liệt Sĩ Hằng ======================

Bài Họa 13
:
Nước Nam Văn Hiến một trời Đông Nay bị Cộng xâm đau xót lòng Bách Việt bốn nghìn năm đất Tổ Tiên Rồng một giải gấm non sông Biên thùy ải cống nộp Tầu Phỉ Hải đảo dầu loang thoát Đại Đồng Máu Đỏ Da Vàng mau phục quốc Toàn Dân chẳng lẽ bó tay không
Tố Nguyên ======================

Bài họa
14: HỎI ĐẢNG BÙ NHÌN
Nước mất nhà tan có thấy không? Hay đành nhắm mắt bởi hơi đồng? Bịt tai, bán đất luôn Nam Ải, Cúi mặt, dâng Tàu cả biển sông. Cộng đảng bù nhìn đành muối mặt, Toàn dân uất hận quá đau lòng. Đất Nam là của dân Nam ở, Biết đến bao giờ mới rạng đông?
CHÁNH MINH 27/6/2011 ======================

Bài họa 15 TẦU Ô TỚI SỐ
Tầu ô chúng nó số quân đông, Giao Chỉ hiên ngang kết một lòng. Quyết liệt suy tôn dân Việt Tộc, Kiên trì chiến đấu đoạt rừng, sông. Mài gươm sáng loáng vung cao chém, Ðạn bắn đi xa tựa súng đồng. Xé xác quân thù trên đất Việt ! Trung Hoa tới số chết như không.
July, 23, 2011. Lê Ðắc ======================

Bài họa 16 XUẤT CẢNG GÁI QUÊ
Gái quê ra tỉnh thật là đông, Mụ Tú nghe tin quyết một lòng. Dụ dỗ em ngoan xa họ Sở, Chờn vờn cháu qúy lánh non sông. Ðài Loan muốn vợ nghề buôn bán, Hàn Quốc ham dâu nghiêp ruộng đồng. Thủ tục xong xuôi rới nước Việt, Theo chồng xứ lạ có buồn không ?
Phoenix, July 23, 2011. Quách Thị Dung =========================

Bài Họa 17
“HỎI DẢNG BÙ NHÌN”
HỌA
VÂN BÀI của TỪ PHONG
Giặc Hán từ ngày chiếm cõi Đông, Trung Ương Đảng bộ có đau lòng ??? Mặc dân xơ xác không còn núi, Thây nước tan hoang đã mất sông. Thờ cúng Mác, Lê là gã Duẩn, Tôn sùng Mao, Đặng chính tên Đồng Giang sơn cẩm tú giòng Viêm Việt, Yêu nước, thương nòi có xót không ??
25-7-2011 TRƯỜNG GIANG ========================

Bài Họa 18 ĐỤNG VÀO BÁCH VIỆT
CHẾT NGHE KHÔNG
Thi nhân xúm họa thực là
đông Hẳn bác Từ Phong thấy hả lòng : Giới trẻ xung phong gìn xứ sở . Phe già quyết chiến giữ non sông . Tâm can vị quốc tâm như sắt . Ý chí vì dân ý tựa đồng . Bớ lũ Tàu phù quân Chệt luộc Đụng vô Bách Việt chết nghe không ?
LTĐQ =======================

Bài
Họa 19 Diệt Hán Tặc Cứu Non Sông
Kính họa bài “Hỏi Đảng Bù
Nhìn” của Từ Phong
Toàn Dân vùng dậy giữ Biển Đông. Nam Bắc đồng tâm quyết một lòng; Gái tú hô vang
tru Hán Tặc. Trai thanh réo gọi cứu Non Sông! Sĩ phu, nghệ sĩ đà bài Đảng, Già trẻ, thơ nhi đã tố Đồng; Một lũ gian manh Hồ, Mạnh, Dũng… Quê Hương đem bán, hổ ngươi không!?
Joseph Duy Tâm, 28-07-2011
=======================

"ĐỒNG THANH
TƯƠNG ỨNG"
Là Bài họa 20
của thi hữu Từ Phong
đa tạ tất cả qúy thi hữu đã hưởng ứng
góp hoạ bài "Hỏi Đảng Bù Nhìn"
Bốn phương Thi
hữu họa vần đông
Trắc ẩn cùng chung một nỗi lòng
Phản kháng Bắc phương xâm biển đảo
Ngăn ngừa bành trướng lấn non sông
Dùng thơ chống giặc, tâm nào khác
Mượn bút trừ gian, ý vẫn đồng
Đa tạ bạn bè cùng chí hướng
Đấu tranh cứu nước, chẳng ngồi không.
07-28-2011 TỪ PHONG
*********************************************
NGƯỜI CON GÁI VIỆT NAM
Mến tặng Em
Trịnh Kim Tiến
Em, người con gái Việt Nam;
Dòng Họ TRỊNH, giống Da Vàng.
Gác thù nhà, đi cứu Nước,
Chống giặc Tàu! Em hô vang...!
Vai Em mang dãi Giang San,
Hoàng Trường Sa; của Việt Nam!
Em nâng cao Hồn Tổ Quốc,
Giữa đoàn người, Em hiên ngang.
Tôi thương Em, người con gái Da Vàng,
Rồi yêu Em, người con gái Việt Nam!
Bởi vì Em người thục nữ hiên ngang;
Và vì Em quyết chống Tàu tham tàn!
Joseph Duy Tâm 24-07-2011
*************************************
NGƯỜI
CON GÁI VIỆT NAM
Nhạc
và lời Dzuy Lynh
(viết tặng sinh viên Hà Nội Trịnh kim
Tiến )
Có phải Em ?
Nguời con gái hiên ngang !
Quên thù
riêng ...theo Mệnh Nước lên đàng ...
Chính là
Em ! Người con gái da vàng !
Đi giữa
hàng người cất tiếng hô vang :
" Hãy
xéo đi ! giặc Tàu phương Bắc !
Hãy quên
đi mộng cướp biển tham tàn ...
Hòang,Trường Sa là đất của phương Nam
Hòang,Trường Sa là đất của Việt Nam ! "
Bốn
nghìn năm cha ông cha ta dựng nước
Là dân
Nam ta phải giữ cơ đồ !
Một
nghìn năm nô lệ gông xiềng
Hận
nghìn năm dân Việt đảo điên
Đất Việt
Nam là đất của người Nam !
Biển
Việt Nam là biển của dân Nam !!!
...Từ
phương xa ngăn cách mấy đại dương
Thấy áo
em bay giữa cờ gió lộng
Xin
nghiêng mình tặng Em nhành Nguyệt Quế
Viết bài
ca tặng Em Người Con Gái Việt Nam !
Gửi đến
Em ! Người Con Gái Da Vàng !
Gửi đến Em ! NGƯỜI CON GÁI
VIỆT NAM !
Dzuylynh
California July.25.2011.
(Joseph Duy Tâm đa tạ và xin phép tác giả Dzuy Linh được
phổ biến lời Ca Khúc Thời Sự nêu trên)
*********************************************
Kính mời
Qúy Vị đọc thêm tài liệu dưới đây.
ẢI NAM QUAN ĐÃ MẤT! AI BÁN?
Tác giả:
Chân Mây
Ven
trời góc biển buồn chim cá
Dạn gió dày sương tủi nước non
Thượng Tân Thị
Bi thương thay cho lịch
sử Việt Nam!
Từng cây số trên quê hương là từng giòng
máu lệ, máu của cha ông ngăn thù và máu của hai miền
huynh đệ chan hòa vào nhau trong hoan lạc dành cho Quốc
tế Cộng Sản. Và đang trở về đây là những bước chân âm
thầm của ngàn năm nô lệ. Kết qủa từ công cuộc nhuộm đỏ
mạo danh “độc lập, tự do, hạnh phúc” theo tư tưởng Hồ
Chí Minh và đồng bọn.
Hãy tiếp tục nhìn những gì mà CSVN đang ra sức thực
hiện: “Thác Bản Giốc, Ải Nam Quan không thuộc lãnh thổ
Việt Nam!”. Họ cố chối bỏ lịch sử Việt Nam và ra sức
tranh cãi, biện luận với dân Việt thay cho Trung Cộng. Ô
nhục! Từ quan đến quân, CSVN chỉ là một lũ tôi mọi dâng
đất, dâng biển của tổ tiên cho ngoại bang bằng văn tự
công hàm, hiện rõ hình hài là một bọn quái thai chưa
từng có trong lịch sử nhân loại!
Chấp bút cho đề tài “Ải Nam Quan”, thay vì tranh
luận bằng văn chương, tôi sẽ sử dụng giá trị của những
tư liệu bằng hình ảnh. Bởi vì, đã có rất nhiều nghiên
cứu công phu của các tác giả yêu nước Việt nồng nàn đã
là qúa đủ để khẳng định “Ải Nam Quan là của Việt Nam! Ải
Nam Quan thuộc về Trung Cộng là do sự hiến dâng của Đảng
CSVN!”. Những hình ảnh sẽ lưu lại đây để cho con cháu
chúng ta hiểu rõ hơn niềm bi thương của đất nước, chỉ
cho các em bọn bán nước hiện đại là ai. Để rồi không còn
ngày phải tôn thờ hình Hồ-Mao và màu cờ máu chỉ còn là
một kỷ niệm buồn. Rất buồn!
Hãy xác tin rằng: “Nước Việt của em từ Ải Nam Quan
đến mũi Cà Mau” là mãi mãi!
Chương I
NHỮNG HÌNH
ẢNH LỊCH SỬ
Trong chương này, việc sắp đặt
hình ảnh về Ải Nam Quan sẽ dựa theo sự thay đổi của lối
kiến trúc v.v. mà phân chia thành các nhóm hình theo ký
tự A,B,C…Để sự diễn tả rõ ràng hơn, những hình ảnh bên
phía Trung Cộng (hoặc Trung Quốc theo thời đại) sẽ gọi
là “Trấn Nam Quan” “Mục Nam Quan” v.v…; ngược lại, nhũng
hình ảnh bên phía Việt Nam sẽ gọi là Ải Nam Quan hoặc
cổng Nam Quan theo đúng tinh thần lịch sử. Phân chia như
sau.
- Nhóm A: họa đồ “Trấn Nam Quan” của Trung Quốc (đánh số
A1 đến A4)
- Nhóm B: có chung kiến trúc (đánh số B1 đến B4)
- Nhóm C: có chung kiến trúc (đánh số C1 đến C4)
- Nhóm D: có chung kiến trúc (đánh số D1 đến D2)
- Nhóm E: không xác định (E1 đến E3)
- Nhóm F: hình quân sự và bản đồ (đánh số F1 đến F6)
- Nhóm Phụ ảnh: Một số phụ ảnh bất định sẽ đưa trực tiếp
vào nơi hình cần thêm minh họa.
Diễn tả
1, Nhóm hình A:
Trước hết, ta có hai bức họa theo lối sơn thủy
về hình ảnh “Trấn Nam Quan” trong đời nhà Thanh (Trung
Quốc). Niên đại của cả hai được cho rằng họa vào đời vua
Ung Chính khi xảy ra cuộc chiến Trung-Pháp (1884-1885)
A1. “Trấn Nam Quan Bổ Phòng Đồ” (1)

Còn gọi là “Thanh Quân Trấn Nam
Quan Bổ Phòng Đồ” (Họa đồ bố trí phòng thủ Trấn
Nam Quan của quân Thanh). Đây là bức họa các vị
trí đóng quân của nhà Thanh nơi Trấn Nam Quan
bên trong nội địa Trung Quốc. Địa hình đồi núi
khái lược. Cổng ra vào với Ải Nam Quan của Việt
Nam nằm tại cạnh phải của bức họa (có đóng khung).
A2. “Trấn Nam
Quan Bổ Phòng Đồ” (2)

Các vị trí đóng quân của nhà
Thanh nhìn từ hướng Việt Nam. Không hiểu tại sao
bố cục của bức họa này lại rất giống với bố cục
trên bưu ảnh (tham khảo hình B1) do người Pháp
chụp vào đầu TK20 (hoặc cuối TK19?) . Có thể bức
họa này dựa theo tài liệu của người Pháp mà vẽ
ra. Giá trị của bức họa này so với bưu ảnh (B1)
là do sự quan sát của người Trung Quốc vào thời
đại cũ nên ta thấy được kiến trúc nguyên thủy
của Ải Nam Quan bên phía Việt Nam. Ta thấy có
một cổng lớn, hai bên cổng là hai dãy tường
thành dâng cao nhưng bị cắt ở hai bên lưng núi.
Một khoảng sau cổng mới đến phần cổng có mái
ngói. Từ phần cổng mái ngói này có dãy tường
thành chạy dài lên đỉnh núi. Đó là phần Trung
Quốc. Các điểm này tương xứng với bưu ảnh (B1).
A3. “Trấn Nam
Quan Đại Chiến”

Minh họa cảnh giao chiến giữa
quân Pháp và quân Thanh tại cổng Nam Quan vào
năm 1885. Niên đại của bức họa không rõ nhưng ta
thấy tường thành có kiến trúc giống cổng Ải Nam
Quan của hình A2.
A4. “Trấn Nam
Quan Đại Lâu Đồ”

Mô tả cảnh quân Pháp rút quân và
binh lực quân Thanh tại Trấn Nam Quan. Hãy quan
sát vị trí cổng theo khung hướng dẫn trong hình. |
2, Nhóm
hình B:
Bưu thiếp (Carte Postale) phong cảnh Ải Nam Quan do
người Pháp thực hiện vào đầu thế kỷ 20. Các nhật ấn sưu
tầm được trên bưu thiếp sử dụng từ năm 1908-1912.
B1. Ải Nam Quan nhìn từ độ cao ở Đồng
Đăng

Vẫn dựa
theo tường thành phía Việt Nam là hai đoạn ngắn
nhưng phần cổng đã thay đổi thành cổng nhỏ. Phía
Trung Quốc là cổng lớn và cao hơn, thiết kế hai
mái ngói và tường thành chạy dài lên núi giống
các bức họa đã nêu trên. Có lẽ sau giao tranh
vào năm 1885. Cổng phía Việt Nam đã bị phá hủy
nên được xây lại không còn qui mô như xưa.
Khoảng trống đến phần cổng phía Trung Quốc là
vùng cảnh giới của hai bên vì dựa theo hình phía
bên Trung Quốc ta sẽ thấy có sự đối xứng (tham
khảo nhóm hình C).
Phụ ảnh:(B1) Ảnh màu để xác nhận hai
phần mái ngói đỏ.

B2. Ải Nam Quan nhìn từ hướng
Đồng Đăng

Ta nhận
thấy sự cao thấp của hai phía cổng và cánh phải
của tường thành phía Việt nam cũng dừng ở ngang
núi theo như họa đồ Trung Quốc (A1). Ở góc phải
phía dưới hình là một ụ trắng phủ cỏ xanh, dấu
tích lô cốt của quân đội Pháp (tham khảo hình F1
sẽ thấy rõ vị trí lô cốt nhìn từ bên Trung
Quốc).
B3. Bang giao tại Ải Nam Quan

Quan sát
các nhân vật trong hình, ta thấy ở cạnh trái có
binh lính Việt Nam đứng thành hàng dài. Giữa
cổng đi ra là hàng phu khiêng kiệu đội nón vải
rộng vành của quân nhà Thanh (chở quan viên?). Ở
cạnh phải của hình có những người nhà Thanh đội
nón và kết tóc đuôi sam. Có lẽ đang diễn ra một
sự kiện nào đó trong lịch sử bang giao tại Ải
Nam Quan.
B4. Cổng Ải Nam Quan

Cổng đóng
then gài, cỏ mọc cao ngất ngưỡng. Hoang tạnh.
Trong lời nhắn trên bưu thiếp cho ta biết cổng
được tu phục vào năm 1908. Nhật ấn “Lạng Sơn”.
Xác nhận bờ tường thành chỉ còn dấu thang bậc đi
lên để so sánh với tường thành phía bên Trung
Quốc (nhóm hình C).
Phụ ảnh: Đường lên Ải Nam Quan từ Đồng Đăng |
3, Nhóm
hình C
C1. Trấn Nam Quan (1)

Nhìn từ
bên Trung Quốc. Kiến trúc ở đây đã khác. Phần
mái ngói lớn phía dưới đã mất, chỉ còn lại phần
mái ngói bên trên và cấu trúc mái cũng khác. Chỉ
có dãy tường thành là vẫn chạy dài lên trên.
Cạnh trái trên đỉnh núi có doanh trại. Phía dưới
trước mặt cổng có cụm nhà ngói. Kiến trúc thay
đổi có lẽ do sự phá hủy trong cuộc “Khởi nghĩa
Trấn Nam Quan” do Tôn Trung Sơn lãnh đạo vào năm
1907. Để dễ phân biệt với nhóm hình chụp từ phía
Việt Nam ta sẽ quan sát thêm sự khác nhau của
địa hình đồi núi.
C2. Trấn Nam Quan (2)

Mặt bằng
của Trấn Nam Quan. Bờ tường thành chia theo lô
khác với hình thang bậc bên phía Việt Nam. Ta
thấy rõ bên phía Trung Quốc cũng có khoảng cách
so với cổng lớn (Quan). Một án tường trắng đối
diện cổng là theo lối phong thủy ngày xưa tránh
sự dòm ngó thẳng vào nhà mình từ phía bên ngoài
(ngay trong các kiến trúc cổ của Việt Nam từ
đình làng đến lăng miếu ta sẽ nhận ra điểm này).
Theo sử liệu Trung Cộng, cụm nhà nhỏ phía trước
cổng lớn (nơi có hai nhân vật áo trắng đang
đứng) là miếu thờ Quan Công gọi là Quan Đế Miếu
và Đền Chiêu Trung. Sau đó vào năm 1896 trong
chương trình khảo sát biên giới giữa Trung-Pháp
đã xây trên nền này một văn phòng quản lý cùng
với 9 điểm khác trên biên giới Trung-Việt. Năm
1914 xây lại lần hai thành kiến trúc nhà lầu
kiểu Pháp nên còn gọi là “Pháp Lầu” hoặc “Pháp
Quốc Lầu” vẫn còn tồn tại cho đến nay.
C3. Toàn cảnh Trấn Nam Quan

Có một khu
trại và hai dãy nhà mái lá cách xa với cổng lớn
ở cạnh tâm phải của hình. “Trấn Nam Quan” là
đây! Khởi nghĩa Tôn Trung Sơn là đây! Khu di
tích này giờ chỉ còn là ruộng nước, gọi là “khu
di chỉ Trấn Nam Quan Khởi Nghĩa”. Các khung
trong hình dùng để xác định vị trí so với hình
C4.
C4. Trấn Nam Quan (3)

Trên bưu
thiếp có tiêu đề “NAM QUAN (Chine) – Le Village”
rõ ràng đây là khu làng mạc (Trấn) trong đất
Trung Quốc. So sánh các khung vị trí với hình
C3:
Dãy nhà lá và con đường đất ở giữa, trước mặt là
cụm nhà ngói và tán cây. Ngang ở tâm trái của
hình là bờ tường thành. Phía góc phải là vách
núi đá (đá vôi?) trắng.
Chữ “Trấn” trong văn tự trung Quốc có rất nhiều
nghĩa, như “trấn giữ”, “trấn áp”, “trấn tĩnh”,
“trấn địa”…v.v. đều là chỉ việc gìn giữ, ổn
định. “Trấn” còn là một đơn vị hành chính sau
cấp huyện có từ thời xưa tại Trung Quốc (đơn vị
hành chính Việt Nam thời xưa cũng thường sử
dụng). Trong một số sử sách Việt Nam có nói
“Trấn Nam Quan” nằm trong nội địa Trung Quốc.
Thì đây, “Trấn Nam Quan” đã xác định là những
hình này! Khối nhà lợp mái ngói ta sẽ hiểu là
khu nhà quan binh, hai dãy nhà lá là khu dân cư
dựa theo binh đội để có cuộc sinh hoạt yên bình.
“Trấn” là khu phố nhỏ, làng mạc. Đừng làm lệch
lạc lịch sử và đừng theo luận điệu của bọn bán
nước mà cho rằng “Ải Nam Quan phải gọi là Bắc
Quan”. Chữ “Nam Quan” là do Trung Quốc kiêng kỵ
Việt Nam nên không muốn gọi là “Đại Nam Quan” mà
thôi. Chữ “Quan” là chiếc cổng qua lại. “Đại Nam
Quan” hay “Nam Quan” là cửa ngõ giao thiệp với
nước Việt Nam. Hai bên đã thủ lễ với nhau bằng
khoảng trống ở hai bên cổng lớn. Theo sử liệu,
sau chiến tranh Trung-Pháp thì nhà Thanh đã
chiếm giữ cổng lớn và buộc phía Việt nam phải
cách xa cổng là 100 thước. Việc này ta thấy
tương đương với khoảng cách của hai cổng trong
nhóm hình B. |
4, Nhóm
hình D
D1. Cổng Nam Quan (1)

Đây là một
kiến trúc khác hẳn so với các nhóm hình trên. Có
vẻ sơ sài vì đã mất hẳn phần kiến trúc phía trên
trong cuộc nội chiến tại Trung Cộng vào năm
1949. Ta thấy có dáng một nhân vật đang cầm
súng. Tiêu đề trên bưu thiếp “NAM QUAN
(Tonkin)…” đây là bên phía Việt Nam khi qua cổng
nhỏ để đứng sát với cổng lớn (vào lúc này có lẽ
kiến trúc cổng nhỏ cũng đã mất). Theo sử liệu
Trung Cộng, trong cuộc giao tranh vào năm 1949
thì toàn bộ phần trên cổng đã bị phá hoại hoàn
toàn (tham khảo hình E2).
D2. Cổng Nam Quan (2)

Hình đăng
trên tạp chí “National Geographic” do GS Nguyễn
Văn Canh đưa lên mạng và không rõ niên đại. Một
số bạn nghi ngờ bức ảnh này không chính xác với
hình ảnh của Ải Nam Quan. Tuy nhiên so sánh với
hình D1, ta đã thấy kiến trúc cùng kiểu của hai
hình. Tại đây, dãy tường thành chạy lên cao đến
vách núi trắng tương ứng với hình C3-C4, có thể
xác định là hình được chụp từ cao điểm bên phía
Việt Nam. |
5, Nhóm
hình E
E1. Không xác định (1)

Một hình
ngôi chùa trên đường đi Long Châu nơi có cổng
giao thiệp với Việt Nam là Bình Nhi Quan. Cùng
với Nam Quan và Bình Nhi Quan còn có Thủy Khẩu
Quan là 3 cổng quan yếu để vào đất Việt Nam nên
gọi chung là “Tam Quan”, có khi cổng Nam Quan
còn gọi là riêng là “Tam Quan” do ở vị trí quan
trọng hàng đầu so với hai cổng Bình Nhi-Thủy
Khẩu. Nơi hình này có tiêu đề “Chine - NAM QUAN
– Loc Hang Thiap”. Chưa rõ chữ “Loc Hang Thiap”
là gì nhưng hình xác định là Nam Quan trên đất
Trung Quốc, có phải là một ngôi chùa trong “Trấn
Nam Quan” hay không? Hay là thuộc Trấn Bình Nhi
Quan?
E2. Không xác định (2)

Quân đội
Trung Cộng đứng trên tường thành giương cờ trong
cuộc chiến thắng quân Tưởng Giới Thạch vào ngày
11.12.1949 tuyên bố giải phóng Quảng Tây. Thế
tường thấp với cổng và trên mặt tường cổng có
chữ “Trấn Nam Quan”.
Phụ ảnh E2: Hình chụp chính
diện của Trấn Nam Quan trong ngày giải phóng
Quảng Tây tháng 12.1949. Trên mặt tường cổng
thành ta thấy rõ chữ “Trấn Nam Quan”. (phòng
trưng bầy lịch sử Hữu Nghị Quan)

E3. Không xác định (3)

Quân đội
Trung Cộng đứng trước cổng nhỏ có khắc chữ “Trấn
Nam Quan”. Không rõ niên đại của hình. Chung với
hình E2, có lẽ đây là “Trấn Nam Quan” mà tôi đã
giải thích (mục 3, nhóm hình C). |
6, Nhóm
hình F
F1. Toàn cảnh Ải Nam Quan

Do trinh
sát quân Nhật Bản chụp vào tháng 6 năm 1940
trước khi tiến hành “cuộc chiến 3 ngày” nhằm đạt
mục đích đưa quân vào lãnh thổ Đông Dương. Hình
được mô tả: “…thấy được đường xe lửa Lao Cai-Côn
Minh. Lại có đường xe ô-tô từ Đồng Đăng lên tận
Trấn Nam Quan. Bờ tường thành này bên trong là
đất Trung Quốc, ngay bên ngoài là Bắc bộ Đông
Dương”.
Từ cao điểm như trong hình ta thấy rõ vị trí lô
cốt như đã xem qua hình B2. Có khả năng lô cốt
đã xây dựng trên một nền kiến trúc cổ xưa của
Việt Nam . Và còn “Suối Phi Khanh” nơi thấm lệ
của Nguyễn Trãi, có ai nhận ra chưa?…Nước mắt!
Phụ ảnh F1: Liên quân Pháp-Việt (trường
Sĩ quan Đồng Đăng)

Những người bảo vệ Ải Nam Quan thất thủ trước
quân Nhật (25.09.1940)
F2. Cột Mốc Số 18

Do quân
đội Nhật Bản chụp tháng 7 năm 1940 ngay tại
tường thành Trấn Nam Quan. Cột mốc số 18 lịch sử
xác định biên giới Trung-Việt vào năm 1887. Xác
định lãnh thổ bảo hộ của thực dân Pháp tại Đông
Dương và cũng là khởi điểm Nam tiến của quân đội
Thiên Hoàng giao tranh với các nước Châu Âu.
Trên Cột mốc số 18 ta đọc được: “Trung Việt Quốc
Giới, Trấn Nam Quan Ngoại, Đệ Thập Bát Hiệu -
No.18 FRONTIERE”
F3. Bản đồ vị trí Trấn Nam Quan và cột
mốc số 18

Do chính quyền Tưởng Giới Thạch họa vào năm Dân
Quốc 13 (1925). Khu vực Trấn Nam Quan và cột mốc
số 18 (có đóng khung)
F4. Hữu Nghị Quan
(tên gọi cổng Nam Quan do Trung Cộng đặt ra vào
năm 1965)

Đây là một
bằng chứng sống động nhất cho kết qủa “bác cháu
ta cùng giữ nước” trong thời cộng sản cầm quyền
tại Việt Nam. Ảnh do cựu chiến binh Trung Cộng (tham
gia chiến tranh biên giới Trung-Việt 1979) chụp
vào năm 2005. Các vạch và khung đánh dẩu trên
ảnh là của tác giả ảnh và được giải thích như
sau.
“Hình trên là từ trên núi Kim Kê chụp xuống. Bên
trái là Hữu Nghị Quan, vòng tròn màu vàng là cao
điểm tranh chấp Trung-Việt, hiện thời do quân ta
khống chế; Vùng màu xanh lá cây hình tam giác là
khu vực gài địa lôi. Vạch dài màu tím là con
đường sắt qua lại với Đồng Đăng. Vùng trắng giữa
hình có hai cửa đường hầm là điểm cuối của cao
tốc Nam Ninh đến Bằng Tường”
Nguyên văn:
上图]这是在金鸡山上往下拍的。左侧是友谊关,黄圈部分为中越有争议的高地,目前为我军控制;草绿色的三角为雷区
,蓝线是通往同登的铁路。图片中间灰白处有两个遂道洞口为南宁至凭祥高速公路的终点站。
Tham khảo tại đây:
http://military.china.com/zh_cn/hist...2461442_1.html
Tôi xin thuyết minh thêm.
Núi Kim Kê là cao điểm chiến lược nằm ở cánh
trái cổng Nam Quan, ngay vị trí chụp ảnh của tên
cựu chiến binh này chính là đất Việt Nam. Khu
vực tam giác trong hình chính là khu vực của cột
cây số Km0 của Việt Nam là nơi mà vào đầu tháng
7.2007, phía Trung Cộng đã tuyên bố hoàn tất gỡ
bỏ tấm đạn địa lôi (mìn) cuối cùng, bảo đảm
thông thương an toàn cho “vùng Hữu Nghị, Hòa
bình vạn tuế!”. Trong các hình ảnh của chương
tiếp theo ta sẽ rõ hơn về vị trí này. Ở đây ta
đã có khái niệm về việc Ải Nam Quan đã mất trong
cự ly ra sao! Việc mất lãnh thổ qủa là nghiêm
trọng! không phải là 100m, 150m, hoặc 200m. Cự
ly trong hình có thể tính bằng Km! Hai lỗ đen
gần giữa tâm hình là đường ra vào của cao tốc
Nam-Hữu (Nam Ninh-Hữu Nghị Quan với chiều dài
179.2 Km. Nam Hữu khởi công vào ngày 28.04.2003
và chính thức khai thông vào ngày 28.12.2005,
cũng là đường quốc lộ số 322 của Trung Cộng với
điểm tận cùng giáp với Km0 của QL1 Việt Nam. Một
âm mưu mới hơn đang hình thành!).
Như ta thấy, cả một vùng đồi núi của Việt Nam đã
bị Trung Cộng ngang nhiên san bằng và xây dựng
công trình trong nhiều năm, vẫn không hề có một
chút phản ứng nào của bọn cầm quyền CSVN. Hay
nói đúng hơn là đã có một sự thỏa thuận nhượng
Ải Nam Quan từ hàng chục năm trước?
F5. Ảnh chụp vệ tinh vị trí của Hữu
Nghị Quan

Khu vực
Hữu Nghị Quan (đóng khung) so với đường biên
giới Trung-Việt màu vàng. Ảnh do cựu chiến binh
Trung Cộng thiết kế để mô tả lại chiến trận biên
giới Trung-việt năm 1979. Lúc này, Hữu Nghị Quan
đã nằm sâu trong đất Trung Cộng từ đời…Hồ Chí
Minh!
|
Ô NHỤC ẢI NAM QUAN!
Chương II
KẺ BÁN ẢI NAM QUAN VÀ KM
ZÉRO Ô NHỤC!
Kẻ bán Ải Nam Quan là
ai?
Kẻ bán Ải Nam Quan và bán luôn cả cơ đồ dân tộc Việt
Nam cho Trung Cộng chính là Hồ Chí Minh và Phạm Văn
Đồng. Máu bán nước ăn sâu vào từng đời của bọn lãnh đạo
CSVN. Để chứng minh rõ ràng những tội lỗi của bọn bán
nước buôn dân này vẫn còn những hình ảnh làm tang chứng.
Hãy tiếp tục xem…
- Giai đoạn 1938-1945, Hồ Chí Minh hoạt động “cách mạng”
tại Quảng Tây.
- Năm 1945 thực hiện cướp chính quyền tại Việt Nam.
- Năm 1950 tiếp tục sang Trung Cộng mưu cầu viện trợ vũ
khí lương thực kháng Pháp.
Hình G1. HCM bí mật sang Quảng Tây ngày
16.01.1950

HCM bí mật sang Quảng Tây
ngày 16.01.1950. HCM là người trùm khăn đứng thứ
hai bên phải hình.
Việc qua lại giữa hai Đảng CS
Trung-Việt liên tục diễn ra tại cổng Nam Quan.
Tháng 10 năm 1953, Chánh Vụ Viện Trung Cộng đổi
tên cổng Nam Quan thành “Mục Nam Quan” (chữ
“Mục” có nghĩa là: hòa thuận, hòa hợp, thân mật,
thân thiết…), đồng thời cả hai chính phủ
Trung-Việt thành lập Ủy Ban Cửa Khẩu Mục Nam
Quan. Cùng năm, thỏa thuận theo Chánh Vụ Viện
Trung Cộng, Việt Nam mở cửa tự do cho hai cửa
khẩu Bình Nhi – Nam Quan. Năm 1953 đã có 276.000
lượt qua lại cổng Nam Quan giữa hai bên.
Hình G2. HCM
bang giao với TC tại cổng Nam Quan trong những
năm 1950

|
- Tháng 2 năm
1954, hai bên chính phủ Hà Nội-Bắc Kinh soạn ra “Hiệp
Định Mậu Dịch Biên Giới”.
- Ngày 26.09.1954, Hồ Chí Minh dẫn đầu đoàn đại biểu
CSVN xuất phát từ cổng Nam Quan tham dự hội nghị tại Nam
Ninh.
- Ngày 10.11.1954, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại
giao VN là Phạm Văn Đồng đi từ cổng Nam Quan sang Bằng
Tường tiếp tục đi Bắc Kinh ra mắt Chu Ân Lai.
Hình G3.
Phạm Văn Đồng ra mắt Chu Ân Lai

- Ngày 26.02.1955,
khánh thành tuyến đường sắt Hà Nội-Trấn Nam Quan. Hồ Chí
Minh đọc diễn văn chúc mừng tại cổng Nam Quan.
Hình G4.
HCM và CÂL yến tiệc xa hoa tại Bắc Kinh tháng
06/1955

- Tháng 12.1958,
hai huyện Ninh Minh, Long Tân kết hợp với Bằng Tường
(Trấn Bằng Tường) thành lập huyện Mục Nam.
- CSVN phản ứng! Ngày 27.04 đến 02.05.1959, Trung-Việt
hội nghị vấn đề biên giới tại Bằng Tường. Ngày
10.05.1959, chính phủ Trung Cộng quyết định xóa bỏ đơn
vị “huyện Mục Nam”. Ninh Minh, Long Tân , Bằng Tường trở
về đơn vị hành chính cũ.
- Ngày 04.09.1959, Chu Ân Lai đáp máy bay đến Bằng Tường
hội đàm cùng Hồ Chí Minh vấn đề biên giới Trung-Việt.
- Năm 1960, Phạm Văn Đồng trồng cây si để làm mốc cho
Km0 của Việt Nam.
Hình G5. Cây si do PVĐ trồng (???)

Cây si do
PVĐ trồng (?) nhìn từ bên phía VN. Vị trí tương
ứng với khoảng cách của tường thành cổng Nam
Quan cũ bên VN
Hình G6. Cây si PVĐ nhìn từ bên cổng
Hữu Nghị Quan của TC

Hình G7. Cây si PVĐ nhìn từ
trên lầu thành Hữu Nghị Quan. Cụm nhà trắng là
Hải Quan TC xây lại trên nền "nhà tròn". Xa thẳm
bên kia là cột Km0 hiện tại.

|
- Ngày 09.04.1961,
Chu Ân Lai và Hồ Chí Minh “hội đàm” tại lầu 2 của cổ
thành Mục Nam Quan. “Hội đàm” về nội dung gì thì cả hai
bên đều không công bố. Chỉ biết rằng cuộc “hội đàm” mờ
ám tại Mục Nam Quan của hai lãnh đạo cộng sản Trung-Việt
được viết trong sách giáo khoa của bọn Trung Cộng là “mở
ra một trang sử mới cho quan hệ Trung-Việt”.
- Ngày 25.08.1978,
khoảng trên 200 quân Việt Nam dùng vũ lực bắt buộc Hoa
kiều phải hồi hương đi vào khu vực Hữu Nghị Quan. Lúc
17g30 cùng ngày, ngay trước cổng Hữu Nghị Quan, quân
Việt Nam đánh chết 6 người, 82 người bị thương, 15 người
chạy thoát. Công tác viên phía Trung Cộng lên tiếng cảnh
cáo và xung đột đã xảy ra giữa hai bên cán bộ
Trung-Việt. Ba ngày sau, quân Việt Nam tiếp tục tràn lên
vùng biên giới tìm kiếm những Hoa kiều đang bỏ trốn…
Chiến tranh biên giới Trung-Việt bắt đầu từ đây, cuộc
chiến mà Trung Cộng lấy cớ “tự hào” là “Tự Vệ Phản
Kích”. Ải Nam Quan thêm một lần nữa chứng kiến xung đột
Trung-Việt. Nhưng từ sau cuộc chiến này, Trung Cộng đã
đẩy lui lãnh thổ Việt Nam ra khỏi Ải Nam Quan và bỗng
xuất hiện cột mốc có tên gọi “Km0” thần thoại, nằm cách
xa cổng Nam Quan hàng trăm thước.
- Ngày 28.05.1980,
Trung-Việt tiến hành trao trả tù binh tại "Km0" trên
đường Đồng Đăng dẫn vào khu vực Hữu Nghị Quan
Hình G23. Phụ ảnh tham khảo "Cột Mốc Số
18" giả mạo (?)

Đây là "Cột Mốc Số 18" mà TC cho rằng đã đặt tại
cổng Nam Quan. Khác với "Cột Mốc Số 18" theo
Hiệp ước Pháp-Thanh (đã trình bầy nơi chương I).
Trên cột mốc này khắc rằng: "BORNE.18
ANNAM-CHINE, Đệ Thập Bát Bài, Đại Pháp Quốc Việt
Nam, Đại Trung Hoa Dân Quốc Vân Nam". Lịch sử
nào ghi rằng Pháp thay mặt VN ký kết Hiệp ước
Biên giới với chính quyền của Tưởng Giới Thạch?
Loại cột mốc này là cùng kiểu với cột mốc số 53
tại khu vực Thác Bản Giốc. Những cột mốc thật sự
của Hiệp ước Pháp-Thanh đã tiêu biến nơi đâu ?
Không ai biết rõ hơn biên giới Trung-Việt bằng
Đảng CSVN, nhưng họ có nói gì không về hiện
tượng này? Lặng câm! Ta nên nhớ, trong đề cương
của Đảng CSVN do HCM soạn ra vào năm 1940 đã chủ
trương một cách mù quáng: "Không công nhận bất
cứ văn kiện, hiệp ước nào của thực dân Pháp thay
mặt VN ký kết với quốc gia khác!"
Sự ra đời của “Km 0” cho đến nay vẫn rất khó
hiểu. Theo “truyền thuyết”, “Km 0” ra đời vào
năm 1960 và Phạm Văn Đồng đã trồng cây si để
đánh dấu vị trí. Có thực sự là PVĐ trồng cây si
để đánh dấu vị trí biên giới Trung-Việt hay
không? Hay chỉ đơn thuần là việc trồng cây kỷ
niệm một sự kiện nào đó? (thói màu mè của CSVN).
Năm 1958, chính tay PVĐ đã ký văn bản dâng biển
cho Trung Cộng, bản đồ Bắc Việt thì Đảng CSVN
dâng cho Trung Cộng vẽ, trong thời điểm lệ thuộc
sự viện trợ của Trung Cộng thì làm sao nói
chuyện căng thẳng biên giới, lãnh hải được. Còn
cây si là cây si nào? Cây si thuộc loại cây
nhiệt đới có sức tăng trưởng và phát tán rất
nhanh. Không thể nào cho rằng cây si mà PVĐ
trồng là cây si đứng sau cột “Km0”. Hãy xem hình
(so sánh với cây si trước cổng HNQ ở chương II).
Hình G24

Năm 1979, hai tên Trung Cộng đang chỉ vào vị trí
cột mốc “Km0”. Cỏ cây rậm rì, một gốc cây nhỏ
phía sau (cây si từ năm 1960?). Phải chăng vị
trí cột mốc chẳng phải bị di dời đi hàng trăm
thước nào cả. Nó đã nằm đó từ những năm 1960,
như một thỏa thuận “hữu nghị” khi HCM dành trọn
Ải Nam Quan để tiếp nhận vũ khí của TC gây máu
lửa trên miền Nam Việt.
Hình G25. "Km0" trong những năm
1990. Biên phòng VN đứng gác nhưng quay mặt về
phía VN. Đáng nể!

Hình G26. "Km0"

"Km0" trong những năm đầu 2000, khi đang xây
dựng lại cảnh quan "Hữu Nghị" và kế hoạch cao
tốc Nam-Hữu . Lúc này trên cột còn ghi "Hữu Nghị
Quan" và "cây si PVĐ" còn đó
Hình G27. "Km0" mất chữ Quan

"Cây si PVĐ" bị đốn bỏ dã man vào năm 2005. Cột
mốc cũng chỉ còn chữ "Hữu Nghị". Đảng CSVN không
dám nhận thêm chữ "Quan". Xóa bỏ vĩnh viễn lịch
sử để làm vừa lòng đàn anh TC!
Hình G28

"Km0" của VN trơ trọi so sánh với bia đá "Nam
Cương Quốc Môn" của Trung Cộng phía sau . Ở vị
trí này ta không còn thấy cổng Nam Quan!
Hình G29

"Km0" trong những ngày năm 2006. Hành lang trắng
bên tay phải dẫn vào khu vực Hải quan TC.
Hình G30

Nhìn sang bên phải để thấy rõ hơn cổng đường hầm
cao tốc Nam-Hữu và Cổng kiểm soát của Hải quan
TC.
Hình G31

Ngang với "Km0" là giao điểm Quốc lộ 322 (điểm
cuối) của TC và Quốc lộ 1A (điểm khởi đầu) của
VN!
"Trung Quốc Quốc Đạo 322 Chung Kết Điểm"
Hình G32

Nhìn sang VN. Đi thêm khoảng 100m nữa mới tới
Cổng kiểm soát của Hải quan VN. Khoảng cách "thủ
lễ" đã xuống dưới chân Ải Nam Quan trong thời
cộng sản. Không còn nằm trước mặt cổng Nam Quan
như ngày xa xưa. Đúng vậy! Ải Nam Quan nào là
của VN? Bọn Ô nhục!
Hàng trăm thước đất của Ải Nam Quan là cả một
đoạn đường dài hàng ngàn năm lịch sử của Việt
Nam, nơi mà tổ tiên Trung Cộng phải bao lần cay
đắng nuốt hận…Đất biển tổ tiên mất qúa dễ dàng!
Đảng CSVN vẫn một mực nói như Trung Cộng, công
nhận lãnh thổ bắt đầu từ cột “Km0”. Đảng CSVN đã
chà đạp lên hồn thiêng sông núi, thay ngọai bang
thảm sát dân tộc, giết chết lịch sử quê hương!
Hình G33. Vẫn cười đấy! Hèn mọn,
bé nhỏ là thế!

Ngày 18.10.2005, Việt cộng TT Nguyễn Tấn Dũng ra
đón khách Trung Cộng ngay tại Km0. Ôi, tư cách
của một TT? Hai tay xun xoe chào đón quan thầy
Trung Cộng. Không ai trong đám cộng sản thời đại
này còn "bản lĩnh" đi qua lại Cổng Nam Quan để
đón khách như Hồ Chí Minh của những năm 1950.
Vẫn cười đấy! Hèn mọn, bé nhỏ là thế!
Hình G34

Ngày 28.12.2005, cao tốc Nam Hữu chính thức khai
thông nối vào khởi điểm Quốc lộ 1A của Việt Nam
Hình G35

Những người dân quê Đồng Đăng bị bắt đứng ra
chụp hình ngay tại giao giới biên cảnh
Trung-Việt. Họ đứng trên khởi điểm của QL 1A như
làm nhân chứng cho lịch sử bán nước của Đảng
CSVN. Những khuôn mặt muộn phiền, ngơ ngác.
Hình G36

Ngay cả những đứa bé Trung Cộng mù lòa cũng được
nắm tay cho sờ vào thành tích của cha ông chúng!
Còn người Việt Nam? Có ai dám cảm tử cầm máy ảnh
ra chụp tại khu vực này hay không? Thi nhân Bùi
Minh Quốc bị cấm cố vì tấm hình ôm cột mốc
Trung-Viêt. Nhà báo Điếu Cày có mấy tấm chụp tại
Thác Bản Giốc mà giờ còn nằm trong Chí Hòa. Và
tôi cũng từng bị biên phòng VN hành hung khi tay
lăm le chiếc máy ảnh nơi vùng biên cảnh "Hữu
Nghị"!
Hình G37

Khách du lịch Trung Cộng thảnh thơi qua lại,
nhàn nhã như ở nhà. Chụp hình ư? Chuyện nhỏ! Đố
tên biên phòng VN nào dám làm khó dễ!
Hình G38

Bước một bước là qua đến VN! Hai con xẩm trong
góc có khung là vị trí của Km0 Ô nhục!
Hình G39

Đứng hai chân trên biên giới!
Hình G40

Và ngồi lên "Km0" của bọn Nam man! Chúng ta là
chủ nhân của lãnh thổ VN!
Hình G41

Hải quan hai bên Trung-Việt trao đổi công tác
tại Km0 (tháng 04.2007)
Hình G42

Những hoạt động của Trung Cộng tại Ải Nam Quan
ngày càng rầm rộ, hoành tráng. Từng đợt học sinh
trên các miền được đưa về Hữu Nghị Quan để nghe
giáo dục về lòng yêu nước! "Tổ Quốc Tại Ngã Tâm
Trung" (Tổ quốc trong tim ta)
Hình G43

Cựu chiến binh trong chiến
trận biên giới Trung-Việt hành hương
Thế hệ
nào của Việt Nam sẽ được tường tận sự ô nhục này.
Việc đòi hỏi Trung Cộng trả lại vùng đất thiêng
của tổ quốc Việt Nam không phải dễ dàng! Sẽ lại
đổ máu như hàng trăm năm trước!
Hình G44

Tháng 11
năm 2007, kỷ niệm 50 năm thành lập khu tự trị
Quảng Tây. Có cả đại biểu VN tham dự, ngồi trên
mảnh đất tổ tiên bị ngoại bang xâm chiếm không
biết họ nghĩ gi? Hay là họ vẫn cười?
Vận động trong sạch môi trường biên cảnh
Trung-Việt. Bản đồ VN đã nối vào khu tự trị
Quảng Tây! |
...Và rất nhiều
hình ảnh khác nữa nhưng tôi sẽ tiếp tục dành cho "Chương
III: Du lịch Hữu Nghị Quan"
Phi Khanh
hỡi! Người còn ngồi nói những lời xưa?
"Con yêu hỡi chớ xuôi lòng mềm yếu!..."
[Trở
lại Chương 1]
Chân Mây
(Tài liệu Sưu tầm trên Net....)
|