HÙNG SỬ
VIỆT-NAM
(Trường Ca “Hùng Sử Việt-Nam”…! Để kỷ-niệm 64
Năm
“Quốc-Khánh Việt-Nam Cộng-Hoà”…..
26-10-1954=>26-10-2018.
Với “Nền Độc-Lập” của
Miền Nam Việ-Nam.)
Việt-Nam
“Hùng-Sử”
đẹp
ngời;
Dân Việt
quyết
chiến,
đánh tơi
giặc
Tàu…
Giữ toàn
lănh-thổ
“Ngọc
châu.”
Truyền
cho con
cháu;
thịnh,
giàu mai
sau…
Cờ “Ba
Ḍng Đỏ”
(1)
Vàng
Mầu;
Giương
cao,
phất-phới
năm Châu
uy-hùng…!
Vàng
tươi
khắp cả
”Ba
Vùng”…
Bắc,
Trung,
Nam;
quyết
đánh
bung Hán
thù…!
Giữ lại
“Cơ-Nghiệp”
muôn
Thu;
Trưng-Vương,
Trinh-Triệu…
diệt trừ
Hán,
(2)
Đông
(Đông
Ngô)!
(3)
Hỡi đoàn
Hậu-Duệ
Lạc-Hồng;
Cùng
nhau gom
sức;
Biển-Đông
giữ-ǵn.
Toàn Dân
Việt Tộc
vững
tin,
“Hoàng-Trường-Sa”
măi hằn
in
Bản-Đồ;
Của
“Ḍng
Hồng-Lạc”
thời Ngô
(Quyền);(4)
Đến thời
cháu
chắt;
“Vàng
Cờ” tung
bay…!
--------------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(1). Cờ “Ba Ḍng Đỏ” Vàng Mầu: Đề-nghị toàn thể Đồng-Bào Việt-Nam,
kể từ
nay trở
đi; khi
nói về
“Cờ
Tổ-Quốc
Việt-Nam”;
xin mọi
người
chúng ta
hăy
trịnh-trọng
tuyên
xưng:
“Cờ Vàng
Ba Ḍng
Đỏ”;
thay v́
“Cờ Vàng
Ba Sọc
Đỏ” như
từ trước
đến nay
mọi
người
vẫn gọi.
Nền
“Vàng”:
Tượng
trưng
cho mầu
“Da
Vàng”
của toàn
Dân Tộc
Việt-Nam
nói
chung.
“Ba Ḍng
Đỏ”:
Tượng
trưng
cho “Ba
Ḍng Máu
Đỏ” của
Dân-Tộc
Ba Miền;
Bắc,
Trung,
Nam…!
Chúng ta
không
thể nói:
“Cờ Vàng
Ba Sọc
Đỏ”
được; v́
chữ
“Sọc” ở
đây
không có
ư nghiă
ǵ hết.
Hơn nữa;
“Cờ Mầu
Vàng”
của
Dân-Tộc
Việt-Nam
đă có từ
thời Hai
Bà Trưng
vào Năm
40 đến
43 sau
Tây-Lịch;
khi Hai
Bà
trương
(giương)
“Cờ Nền
Vàng;
Riềm Đỏ”
để điều
quân;
đánh
đuổi và
dẹp tan
quân Nhà
Đông-Hán
(Thời
vua Hán
Quang-Vũ),
do
Thái-Thú
Tô-Định
cầm đầu…
Hai Bà
đă Thu
về được
65 Thành
Thị và
Sau đó
Xưng
Vương.
Đóng Đô
tại
Mê-Linh
và
tuyên-bố
“Độc-Lập”
với nhà
Đông-Hán.(2)
(2). Trưng Nữ Vương diệt trừ Tô- Định; Nhà Đông Hán.
(3).
Triệu
Thị
Trinh
diệt trừ
Nhà Đông
Ngô.
(4). “Thời Ngô”: Tức là thời Ngô-Quyền: Sinh năm Mậu-Ngọ (989),
tại làng
Đường-Lâm,
huyện
Phúc-Thọ,
tỉnh
Sơn-Tây
(cùng
làng với
Phùng-Hưng).
Thuộc
ḍng dơi
quư tộc.
Cha là
Ngô-Mân
làm chức
Châu-Mục
ở bản
Châu.
Ông là
một
Tướng
tài của
Tiết-Độ-Sứ
Dương-Diên-Nghệ.
Khâm
phục tài
trí của
Ông,
Diên-Nghệ
đă gả
con gái
là
Dương-hậu
để làm
vợ ( Sau
trở
thành
Hoàng-Hậu
của
Ngài).
Và cử
làm
Thứ-Sử
cai trị
Ái-Châu
(nơi nhà
Họ Dương
có nhiều
thế
lực).
Ngô-Quyền
là một
Tướng
tài và
mưu-luợc,
đă tiêu
diệt
được
giặc nội
thù là
Kiều-Công-Tiễn.
Đồng
thời đă
đánh bại
và
tiệu-diệt
hoàn
toàn đại
quân
Nam-Hán
do
Thái-Tử
Lưu-Hoàng-Tháo
(Con
Lưu-Cung,
vua
Nam-Hán)
lănh
đạo; tại
Sông-Bạch-Đằng.
Sau khi chấm dứt được 1146 năm giặc Tàu đô hộ, Ngô-Quyền bắt đầu
mở ra
một kỷ
nguyên
mới cho
nền
Độc-Lập
của
Việt-Nam
kể từ
Năm 939
sau
Tây-Lịch.
Ngài
xưng là
Ngô-Vương.
Đóng đô
tại
Thành
Cổ-Loa
(Kinh-Đô
cũ thời
An-Dương-Vương).
Ngài Trị
v́ được
6 năm.
Đến năm
Giáp-Th́n
(944)
th́ mất.
Hưởng
thọ 47
tuổi.
Việt-Nam;
Kinh,
(4a)
Thượng,
Thái,
Tày,
H’Mông,
Mường,
Mán, Dao
(Gia)-Rai,
Chăm,
Nùng…
Năm mươi
“Sắc-Tộc”
anh-hùng;
Bao thời
đoàn-kết
sức
chung
diệt
thù.
Hán,
Mông; ác
tặc
thiên
Thu…
Muôn đời
xâm-chiếm…
“Kẻ thù
Dân
Nam…!”
Dân Nam,
“Dân Tộc
Da
Vàng”;
“Ba Ḍng
Máu Đỏ”,
cao-sang
muôn
đời…!
Đương
thời;
hiện-diện
khắp
nơi…
Á, Âu,
Mỹ, Úc;
vùng
trời Năm
Châu…
Đồng tâm
tiêu-diệt
“Giặc
Tàu”;
Cùng
Trump,
(5)
góp sức…
phủ đầu
Hán
gian…!
Thằng
Tập, là
thằng
làm càn;
Chủ-trương
Hán hoá
“Dân
Nam”
muôn
đời.
Chiếm
Rừng,
Biển,
Đảo khắp
nơi…
Xoá nền
“Văn-Hóa
Ngàn Đời
Dân
Nam”…!
Lệnh cho
Bùi-Hiền(6)
sài-lang;
“Tiếng
Việt
Cải-Cách;”
(6)
âm vang…
tiếng
Tàu.
Hiệp
cùng
Hồ(Ngọc)-Đại;
(7)
nhâu-nhâu…
Tṛn,
Vuông,
Tam-Giác,
Cứt-Nâu(đống
cứt),(7)
B́nh-Hành;
H́nh-Thoi,
Giáo,
Mác
lanh-canh;
Búa,
Liềm,
Ê-Lip(ellipse),
Phương(lậpphương);
thành
chữ
ngông…!
Chim(Dương
Vật),(8)
Dao,
Búa,
Trụ(h́nh
trụ),
Sao
lồng;
(9)
Đó là
loại chữ
Hồ(Ngọc-Đại)
ngông,
Bùi-Hiền…!
“Hai
Thằng”
(10)
xỉ-nhục
Tổ-Tiên;
Xóa “Nền
Văn-Hóa
Thánh-Hiền”
ngàn
xưa…
Bọn này,
nghiêm
trị cho
chừa;
“Tội Đồ
Dân
Tộc”;
sao ưa
được
nào…!?
---------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(4a)- “Việt-Nam; Kinh, (4a) Thượng, Thái, Tày,”: Chữ “kinh”dùng ở
đây
ám-chỉ
“Dân
Việt-Nam”
sống ở
“Kinh-Đô
hay các
Kinh-Thành”
ờ các
miền
đồng
bằng ven
biển…
khác với
“người
Thượng;
cũng là
Dân
Việt-Nam…
Nhưng
sống ở
trên các
vùng
Cao-Nguyên
Trung-Phần
hay các
miền
đồi, núi
ở Miền
Bắc
Việt-Nam.
Người
“Kinh” ở
đây;
không
phải là
“Dân-Tộc
Kinh”;
một sắc
dân
thiểu-số
của dân
Tàu (hay
Trung-Hoa).
(5)- “Trump”: Là Tổng Thống Donald Trump quyết diệt Xă Hội Chủ
Nghĩa;
và Tàu
cộng.
(6)- “Lệnh cho Bùi Hiền”: Tập Cận B́nh ra lệnh cho Tiến sĩ
Bùi-Hiền
phá Văn
Hoá Việt
Nam…
bằng chữ
viết
cải-cách
theo âm
tiếng
Tàu.
(7)- “Hiệp cùng Hồ(Ngọc) Đại”: TS Hồ-Ngọc Đại cũng nhận lệnh âm
mưu phá
hoại chữ
Quốc Ngữ
Việt Nam
bằng các
h́nh
ảnh:
đống
cứt,
dương
vật và
các h́nh
ảnh dao.
búa,
liềm,
giáo,
mác và
càc h́nh
về h́nh
học: Tam
giác,
tṛn,
vuông,
b́nh-hành,
ê-lip
(ellipse).v.v…
(8)- “Hai Thằng” xỉ nhục Tổ-Tiện”: Là Bùi-Hiền và Hồ-Ngọc-Đại.
Ngước
nh́n,
Con hỏi
Trời
cao;
Sao Ngài
nỡ để
“Cờ Sao”
(11)
hoành-hành…!?
Chúng
con Dân
Việt,
năm
canh;
Tháng
ngày
quằn-quại;
bởi nanh
Cộng
thù.
Thời
gian, đă
tám-tám
Thu…(12)
Đến nay
vẫn măi
ngục tù
lầm-than…!
Hồ,
Linh,
Mười,
Trọng…
bầy đàn;
(13)
Đang tâm
bán Nước
“Cờ
Vàng”
thời
Trưng.
(14)
Trưng-Vương,
Nữ Tướng
anh-hùng;
Dẹp tan
Tô-Định,
lẫy-lừng
Mê-Linh…!
Mê-Linh;
một thuở
Cung-Đ́nh;
Của
“Ḍng
Bách-Việt”;
quang-vinh
Lạc-Hồng…!
Tách-biệt
Đông-Hán
cuồng-ngông;
Xây “Nền
Độc-Lập”,
quần
hồng nhị
Trưng…!
-----------------------------------------------------------
Tới thời
Ngô
(Quyền)
(15)
rất
anh-hùng;
Dẹp quân
Nam-Hán;
(15)
chết
chung
Bạch-Đằng.
(15)
Tiêu-diệt
(Lưu)Hoằng-Tháo
hung-hăng;
Lưu-Cung;
xấu-hổ,
tái xanh
mặt
mày…!
Ngô-Quyền,
(15)
dũng
tướng
hăng-say;
Giành về
“Độc-Lập”;
(15)
tháng
ngày
b́nh-sinh.
Xưng
Vương,
thiết-lập
Cung-Đ́nh;
Vui nền
Độc-Lập;
dân t́nh
tung-hô…
Không
c̣n sống
cảnh sầu
lo;
Mà là
vui
hưởng
ấm-no,
thanh-b́nh…!
------------------------------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(11)- “Cờ Sao”: Là Cờ Đỏ Sao Vàng của Tỉnh Phúc-Kiến thuộc Tàu
Cộng. Hồ
Chí Minh
mang về
Việt Nam
làm Đảng
Kỳ của
Cộng Sản
Việt
Nam. Về
sau CSVN
dùng làm
cờ của
Việt Nam
Dân Chủ
Cộng Hoà
của Miền
Bắc. Sau
ngày
30-04-1975;
được
dùng cho
cả Nước
VN.
(12)- “Thời gian đă tám-tám Thu”: Đảng Cộng Sản Việt Nam được
thành
lập kể
từ ngày
03-02-1930;
tính đến
ngày
03-02-2018
đă làm
88 Mùa
Thu (88
Năm).
(13)- “Hồ, Linh, Mười, Trọng… Bầy đàn”: Là Bộ Chính-Trị của
ĐCSVN.
Ngoài
các tên
Hồ-Chí-Minh,
Nguyễn-Văn-Linh,
Đỗ-Mười,
Nguyễn-Phú-Trọng
ra; c̣n
có tất
cả
Thành-Viên
trong Bộ
Chính
Trị; đều
là những
tên bán
Nước,
cầu
vinh…!
(14)- “Đang tâm bán Nước “Cờ Vàng” thời Trưng.”: Cờ của Nước
Việt-Nam
thời
Trưng Nữ
Vương
diệt Tô-
Định nhà
Đông Hán
năm 40
sau
công-nguyên,
có “Nền
Vàng,
Riềm
Đỏ.”
(15)- “Tới thời Ngô (Quyền) (15) rất anh-hùng;”: Năm (938),
Ngô-Quyền
đă dẹp
tan đoàn
quân
viễn-chinh
nhà
Nam-Hán
do Lưu-
Hoàng-Thao
(Con vua
Lưu-Cung)
cầm đầu…
Và giết
luôn kẻ
nội thù
là
Kiều-Công-Tiễn.
Sau đó,
Ngài
lệnh cho
binh
lính
đóng cọc
đầu nhọn
bịt sắt;
trên
sông
Bạch-Đằng.
Khi
triều
lên,
Thủy
binh
Hoàng-Thao
hung-hăng
tấn công
với thái
độ
kiêu-căng.
Ngô-Quyền
giả thua
lui
binh.
Chờ khi
triều
xuống,
Ngô-Quyền
phản
công,
các
chiến
thuyền
của
Hoàng-Thao
bị cọc
đâm
thủng,
quan
quân bị
chết hơn
phân
nữa,
phần c̣n
lại
chạy
trốn về
Phiên-Ngung
của
Nam-Hán.
Riêng
Hoàng-Thao
bị
Ngô-Quyền
bắt và
giết
luôn.
Lưu-Cung
nghe
được
tin,
thất-kinh
và nể
phục.
Sau
khi chấm
dứt được
1146 năm
giặc Tàu
đô hộ,
và bắt
đầu mở
ra một
kỷ
nguyên
mới cho
nền
Độc-Lập
của
Việt.Nam.
Ngài
xưng là
Ngô-Vương.
Đóng đô
tại
Thành
Cổ-Loa
(Kinh-Đô
cũ thời
An-Dương-Vương).
Ngài Trị
v́ được
6 năm.
Đến năm
Giáp-Th́n
(944)
th́ mất.
Hưởng
thọ 47
tuổi.
Dương-Kha: Dương-Tam-Kha là em vợ của Ngô-Vương. Trước khi chết,
Ngô-Quyền
ủy thác
cho
Tướng
Tam-Kha;
phù giúp
đưa
Ngô-Xương-Ngập,
là trai
trưởng
của Ngài
lên Ngôi
Vua.
Nhưng
Tam-Kha
đă lợi
dụng cơ
hội cướp
ngôi của
cháu là
Ngô
Xương-Ngập.
Đồng
thời tự
lên ngôi
và xưng
là
B́nh-Vương
(945-950).
Nhưng
Triều-Đ́nh,
quan
tướng,
dân
chúng
không
phục.
“Việt-Nam
Hùng Sử”
thời
Đinh;
(16)
Dẹp tan
“Quân-Sứ”;
Cung-Đ́nh
mười
hai.
“Sáu tên
Thổ-Phỉ
Tàu
lai”:
Siêu,
Khoan,
Thạc,
Tiệp,
Thuận,
hài
Minh-Công”.
Đinh(Bộ)-Lĩnh,
vốn là
Thần-Đồng;
Cờ Lau,
gióng
trống,
Nhi-Đồng
phục
tuân.
Bày
binh, bố
trận
rần-rần…
Trăm
trận,
trăm
thắng;
toàn dân
kính
nhường.
Tôn vinh
làm
“Vạn-Thắng-Vương”;
(16)
Lớn lên,
liên-kết
Ngô-Vương
(15)
diệt
thù…!
Giết
Kiều-Công-Tiễn
đần,
ngu;
Kết-liên
Nam-Hán,
rước thù
Lưu-Cung.
Ngô-Quyền,
Bộ-Lĩnh
anh-hùng;
Giết
luôn
(Lưu)Hoằng-Tháo;
Lưu-Cung
phải
hàng.
Từ đây,
Lịch-Sử
sang
trang;
Ngô-Vương
dựng
nghiệp,
“Dân
Làng”
yên
vui…!
Cuối
thời
Ngô, rất
ngậm-ngùi…
(17)
Ngô(Xương)-Văn,
con thứ;
vận xui
ĺa
trần!
(17)
Cháu nội
Ngô(Xương)-Xí
(18)
phân-vân;
Lên
Ngôi,
“Quân-Sứ”;
(18)
một phần
mười
hai.
Nước
loạn;
vận số
an-bài…
Tướng
Quân
Đinh(Bộ)-Lĩnh
giương
oai dẹp
loàn…!
Tiêu-trừ
mười
Tướng
xấc,
ngang…
(19)
Ḍng
Ngô:
(Nhật)-Khánh,
Xí;
chiêu
hàng
trướng-quân.
B́nh-Kiều:
Ngô(Xương)-Xí;
Vương
thần,
Con ḍng
cháu dơi
Triều-Thần
Ngô-Vương.
Nhà Đinh
v́ nể,
khiêm-nhường;
Kết-thân
xây-dựng:
“Con
Đường
Việt-Nam”!
----------------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(16)- “Việt-Nam Hùng Sử thời Đinh; ”: Thời Đinh-Bộ-Lĩnh: tức là
vua
Đinh-Tiên-Hoàng
(968 -
979).
Ngài đă
dẹp tan
12
Sứ-Quân;
trong số
đó đă có
tới:
“Sáu Tên
“thổ phỉ
Tàu
lai”:
xưng làm
Sứ Quân
6 Vùng
trên
toàn cơi
Việt Nam
lúc bấy
giờ gồm
có:
Siêu,
Khoan,
Thạc,
Tiệp,
Thuận,
hài
Minh-Công.
17)- “Cuối thời Ngô, rất ngậm-ngùi…”: Sau khi Ngô Quyền mất
(944),
ủy thác
con
trưởng
Ngô-Xương-Ngập
cho
Dương-Tam-Kha
- em của
Dương
Hậu, vợ
Ngô-Quyền.
Dương-Tam-Kha
lợi dụng
chiếm
ngôi của
Ngô-Xương-Ngập.
Tự xưng
là Vua
lấy hiệu
là
Nam-Binh
Vương;
Sợ quá,
Ngô-Xương-Ngập
chạy về
nhà một
hào
trưởng
là
Phạm-Lệnh-Công,
ở làng
Trà-Hương,
Nam-Sách.
Ở đó
Ngô-Xương-Ngập
lấy
Phạm-Thị-Ngọc-Dung
(Uy
Duyên)
con gái
Phạm-Bạch-Hổ
và sinh
Ngô-Xương-Xí.
Năm 954,
Ngô
Xương
Ngập bị
bệnh
thượng
mă phong
chết,
chỉ c̣n
Ngô-Xương-Văn
(là Em).
Lợi dụng
thời cơ;
Dương
Tam Kha
(là em
vợ:
Dương
Hậu)
cướp
ngôi vua
của Thái
Tử Ngô
Xương
Ngập. Và
v́
Dương-Tam-Kha
không
bắt được
Ngô-Xương-Ngập,
liền bắt
em là
Ngô-Xương-Văn
về làm
con
nuôi.
Nhưng
Triều-Đ́nh;
hầu hết
quan
tướng
đều
bất-măn
chống
đối việc
làm của
Tam-Kha.
Về sau,
Đỗ Cảnh
Thạc và
Dương
Cát Lợi
giúp Ngô
Xương
Văn lật
đổ Dương
Tam Kha,
Phạm
Bạch Hổ
tham gia
giúp Hậu
Ngô
Vương.
Năm 965,
Ngô-Xương-Văn
đi đánh
thôn
Đường
thuộc
căn cứ
Đường-Lâm
và thôn
Nguyễn-Gia-Loan
thuộc
phạm vi
kiểm
soát của
sứ quân
Nguyễn-Thái-B́nh
bị phục
binh bắn
nỏ chết.
Tại Cổ
Loa các
tướng Lă
Xử B́nh,
Kiều Tri
Hựu, Đỗ
Cảnh
Thạc,
Dương
Huy
tranh
nhau làm
Vua.
(18)- “Cháu Nội Ngô Xương Xí”: Ngô-Xương-Xí là con của Ngô-Xương-Ngập;
cháu Nội
của
Ngô-Quyền.
Khi lên
Ngôi; v́
thế lực
yếu, nên
đành tự
nhận làm
một
trong 12
Sứ-Quân;
thời
Đinh Bộ
Lĩnh lúc
bấy giờ.
(19)- “Tiêu trừ 10 Tướng xấc ngang.”: Trong số 12 Sứ Quân, Đinh
Bộ Lĩnh
quyết
diệt trừ
10 Tướng
ngang
tàng,
trong đó
có 6 tên
Tướng
Tàu: Là
Siêu,
Khoan,
Thạc,
Tiệp,
Thuận,
hài
Minh-Công.
Riêng
Tướng
Ngô Nhật
Khánh và
Vua Ngô
Xương
Xí; v́
là Ḍng
dơi
Hoàng
Tộc nhà
Ngô; nên
Đinh
Tiền
Hoàng đă
kết thân
hoà-đàm,
kêu gọi
cùng hợp
tác để
giữ thể
diện và
cùng xây
dựng
“Con
Đường
Việt
Nam”
chung
một lư
tưởng.
Thắng-Vương,
khí-phách
phi-phàm;
Dẹp-tan
loạn-lạc,
hiên-ngang
khắp
trời.
Mậu-Th́n,
(20)
Bộ-Lĩnh
lên
Ngôi;
Đinh-Tiên-Hoàng
Đế; thay
thời
Ngô-Vương!
Hoa-Lư,
ngời-sáng
phố
phường;
Kinh-Đô
Đại-Việt,
khắp
phương
reo
mừng.
Thoát
thời
nô-lệ
tàn-hung;
Bởi
“Giặc
phương
Bắc”, vô
cùng
ác-gian!
Giành về
Độc-Lập
Hồng-Bàng;
Giang-Sơn
thống-nhất,
an-khang
kiêu-hùng!
Đinh(Tiên)-Hoàng,
một thuở
anh-hùng.
Dầy công
dẹp
loạn,
phục-hưng
“Nước
Nhà”.
Muốn cho
Dân,
Nước
an-ḥa;
Vua ban
quốc-pháp,
lập Ṭa
an-dân.
Hầu ngăn
những kẻ
nghịch-thần,
Bên
trong
cũi-hổ,
ngoài
sân
vạc-dầu.
Nhưng
thời Đế
nghiệp
không
lâu;
Dẫu Đinh
Hoàng-Đế;
mong cầu
phân-minh.
Dựng xây
triều-chính,
cung-đ́nh;
Triều-nghi,
phẩm-tước,
công-minh
rỏ-ràng.
Ư Ngài
muốn
nước
Việt-Nam;
Toàn dân
được
sống
an-khang
lâu dài.
Không
c̣n chém
giết,
ách-tai;
Thoát
đời
nô-lệ,
miệt-mài
đau-thương!
-------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(20)- “Mậu Th́n”: Năm Mậu Th́n 968; sau khi dẹp xong 12 Sứ Quân;
Triều-thần
tôn
Đinh-Bộ-Lĩnh
là
Vạn-Thắng-Vương
lên ngôi
Hoàng-Đế.
Húy-Hiệu
là
Đinh-Tiên-Hoàng
(353).
Đặt
Kinh-Đô
tại
Hoa-Lư
và đổi
tên nước
là
Đại-Cồ-Việt
(thay v́
Giao-Châu).
Sau khi
lên
Ngôi,
Đinh-Tiên-Hoàng
đă cho
xây
cung-diện
và sắp
đặt lại
Triều-cương
và những
quy-định
về các
chức vụ
quan
văn,
quan vơ…
trong
Triều.
Đồng
thời
phong
ban chức
vụ cho
các văn
thần, vơ
tướng có
công
trong
việc dẹp
loạn,
dựng
Nước
như:
Nguyễn-Bặc
làm
Định-Quốc-Công
(như Tể
Tướng).
Lê-Hoàn
là
Thập-Đạo
Tướng
Quân
(Như
Tổng
Tham Mưu
Trưởng).
Đinh-Điền
làm
Ngoại-Giáp
(Như Bộ
Trưởng
Ngoại
Giao).
Và c̣n
nhiều
chức vụ
khác.
Riêng
con
trưởng
Đinh-Liễn;
ngoài
chức vụ:
“Nam-Việt-Vương”,
Vua c̣n
đặc cử
làm
Sứ-Thần
để giao
hảo với
nhà Tống
bên Tàu
khi đó.
Thời
Đinh
Tiên
Hoàng;
Toàn dân
được
sống
an-khang
lâu dài.
Không
c̣n bị
chém
giết,
ách-tai;
Thoát
đời
nô-lệ,
miệt-mài
đau-thương!
Tới Thời
Hậu-Lư
(21)
phi-thường;
Bốn Đời
(21)
hiển-hách;
Bắc-Phương
nhớ
đời…!
1-
Lư-Thái-Tổ
(10/1009
- 1028).
Kể từ
Công-Uẩn
lên
“Ngôi”;
(22)
Tới khi
(Lư)Thái-Tổ
ĺa đời
(22)
b́nh-an.
Biết bao
công đức
phi-phàm;
Thương
dân, yêu
Nước,
hảo bang
Bắc
Triều.
Hành-tŕnh,
thập-cửu
(22)
Vương-Triều;
Dân yêu,
bạn mến;
cao-siêu
cuộc
đời!
Vinh
danh
Thái-Tổ
rạng-ngời;
Hy-sinh
cuộc
sống;
cho đời
lên
hương…!
Thiên-Thành
(22)
về cơi
vô-thường;
Vui cùng
Tiên Tổ
Quê-Hương
Lạc-Hồng!
2-
Lư-Thái-Tông
(1028 -
1054).
Tiếp con
Phật-Mă:
(Lư)-Thái-Tông;
Lên ngôi
Hoàng-Đế,
nối Ḍng
Lư-Gia.
Hoà-hợp
anh, em
một nhà;
Chung
tay
xây-dựng
Quốc-Gia
uy-hùng…!
Giặc
xâm…
quyết
chí
truy-lùng;
Dẹp Cao,
diệt
Đẩu, Vua
hung xứ
Lào.
Thái-Tông:
nhân-ái,
tài cao;
Thương
dân, giữ
Nước,
xiết bao
ân-t́nh!
Chăm lo
triều
chính,
cung
đ́nh;
Xây chùa
Diên-Hựu;
Thần
linh
phụng-thờ.
Chính-cương,
sắp-đặt
quân-cơ;
Sẵn-sàng
ǵn-giữ
cơi-bờ
b́nh-an.
Triều-cương
sửa lại
rơ-ràng;
“H́nh-Thư”
bộ Luật;
“Chỉ”
ban
thi-hành.
Ai tuân
sẽ được
vinh
danh,
Kẻ
không,
sẽ phải
chấp-hành
luật
nghiêm.
------------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(21)- “Bốn Đời Hậu Lư hiển-hách.”: Là Lư-Thái Tổ, Lư Thái Tông,
Lư Thánh
Tông, và
Lư Nhân
Tông.
(22)- “Kể từ Công-Uẩn lên Ngôi.”: Vua Lư Thái Tổ lên Ngôi vào
tháng 10
Năm
1009,
lấy Niên
Hiệu là
Thuận
Thiên. Ở
Ngôi trị
v́ được
19 Năm.
Và tạ
thế vào
Năm
Thiên
Thành
31-03-1028.
Thọ 55
tuổi.
“H́nh-Thư”
bộ luật
đầu
tiên;
Kể từ
lập
Quốc;
khởi
nguyên
Hồng-Bàng.
Thái-Tông;
“Minh-Đạo”
rơ-ràng…
Tra
cung,
quy tội:
Phải
đang;
công,
tường.
Ngoại
trừ
“Thập-ác”;
khó
thương;
Phải quy
nghiêm-khắc;
chớ
nhường
vị
thân…!
Kinh tài
chủ yếu
nông
dân;
Thái-Tông,
Lễ-Hội;
đích
thân đi
cày.
Lụa là,
gấm vóc;
thêu
may;
Đă là
nhi nữ;
phải
hay,
phải
rành.
Cung
tần, phi
tử phải
lanh;
Biết
thêu,
biết
dệt,
tinh-anh
tỏ-tường…!
Việc này
có lợi
khôn
lường.
Vua,
Quan
tránh
được
gian-thương
hàng
Tàu.
Hậu phi,
cung-nữ,
nhạc
chầu;
Thập
tam,
thập
bát,
trăm hầu
ca-công.
Thái-Tông;
“Minh-Đạo”
nối
ḍng;
Anh-minh,
nhân-ái,
uy-phong
Lư-Triều.
Trị-v́
chính-trực,
cao-siêu;
Thác an
cơi
phúc,
lưu
nhiều
tiếc
thương!
3-
Lư-Thánh-Tông
(1054 -
1072).
Nhật-Tôn,
tiếp nối
tông-đường;
Lên ngôi
Hoàng-Đế;
danh
dương
Lư-Triều.
Thánh-Tông,
vương
hiệu
cao-siêu;
Quốc-danh:
Đại-Việt,
bao
nhiêu là
t́nh…!
Hiệu-niên:
Long-Thụy
Thái-B́nh.
Vị Vua
nhân-ái,
ắp t́nh
yêu-thương.
Yêu con,
là
chuyện
b́nh-thường;
Yêu dân,
yêu cả
gạt-lường
tội-nhân…!
Một hôm,
ngự
trước
quần-thần;
Thánh-Tông
phán bảo
quan,
quân thế
này:
“Cẩm-bào,
Trẫm mặc
thật
dày;
Mà thân
c̣n rét;
tù-đày
rét
hơn…!
Lạnh
thân đă
vậy,
lạnh
hồn;
Áo không
đủ ấm,
chén cơm
thiếu
dùng.
Lắm
người,
chưa tỏ
lời
cung;
Lỡ sai
giáng
tội;
khốn-cùng
thác
oan…! ”
Nói rồi
Vua
truyền
các
quan;
Chiếu
chăn
cấp-phát,
trao ban
“thực”
dùng.
Một hôm
xét án
kết
cung;
Động-Thiên
công-chúa;
đứng
cùng bên
Vua.
Thương
dân,
Ngài
phán như
đùa:
“Thần
dân có
khác con
Vua chỗ
nào…!?
Yêu con,
ở chốn
thanh-cao;
Yêu dân
cũng
vậy,
khác nào
như con.
Chỉ v́
dân-trí
c̣n non;
Không
may phạm
lỗi; tội
đ̣n phải
mang.
Luật
h́nh quy
án đă
ban;
Từ nay
giảm
bớt,
nhẹ-nhàng
yêu-thương…!”
Thánh-Tông,
tài, đức
phi-thường;
Dựng xây
Văn-Miếu,
tinh
tường
Phật,
Nho.
Quyết-tâm
phát-triển
Cơ-Đồ;
Lưu-truyền
Phật-Pháp,
Khổng-Nho
thánh
hiền.
Triều
Ngài,
Đất-Nước
b́nh-yên;
Mở-mang
cương-thổ,
khắp
miền
Bắc,
Nam.
Bắc
phương,
Ngài dẫn
quân
sang;
Hiên-ngang;
diễu
khắp
phố,
làng
Khâm-Châu.
Báo cho
Vua Tống
nước
Tàu;
Đừng
ḥng
lấn-chiếm
tuyến
đầu
Việt-Nam.
Lạng-Châu,
Thân-Thái
hiên-ngang;
Điều
quân
sang
đánh
tan-hoang
quân
Tàu.
Dương-Tài
bị tóm
cái đầu;
Tống sai
Dự-Tĩnh,
sang
chầu xin
tha.
Phi-Gia
Đại-Việt;
giao-ḥa,
Tọa-đàm
tuy
lịch;
không
tha
Dương-Tài.
Thánh-Tông;
tỏ rỏ
thanh-oai;
Tống
vương
kính-nể
danh
Ngài;
Việt
vương…!
Bang-giao;
hai Nước
b́nh-thường,
Việt,
Tàu
thân-hữu;
giao-thương
công-b́nh.
Tống
vương,
học cách
điều
binh;
Từ trong
Sách-Lược;
định
b́nh
Việt-Nam.
Thánh-Tông,
vận số
bẽ-bàng;
Xuân gần
bốn
chục,
chưa
toàn “Tử
ngôi”.
(23)
Nghiệp
Vương
nối-dơi
“Ḍng
Đời”;
Vẫn hoài
mong-đợi;
ơn Trời
thương
ban.
Một hôm,
du-lăm
thênh-thang;
Thánh-Tông
cầu tự
tại
làng;
Chùa
Dâu.
Trời
thương,
thỏa-dạ
mong-cầu;
(24)
Gặp
người
con gái,
hái Dâu
bên
đàng.
Khiết-Nương,
(24)
nép bóng
bụi Lan;
Thánh-Tông
bỗng
thấy
dáng
nàng dễ
thương…!
Tâm-hồn
xao-xuyến
khôn
lường;
Vời về
cung-điện;
luyến
thương
vô
ngần…!
Thánh-Tông,
trước
mặt
quần-thần;
Phong
nương
trinh
Khiết;
Phi-Tần
Ỷ-Lan.
(24)
Hai năm
sau đó
Trời
ban;
Trưởng
nam
Càn-Đức;
ngập
tràn yêu
thương…!
Thánh-Tông
thỏa dạ
Tông
Đường;
Hôm sau
phong
Đức; Tử
vương
(23)
Lư
Triều.
Vương
Triều
hạnh-phúc
bao
nhiêu;
Thời dân
cũng
vậy;
thêm
nhiều
hân-hoan…!
Mậu-Thân
(1068),
trai thứ
Trời
ban;
Minh-Nhân
(23a)
hoàng-tử;
vô vàn
thánh
ân…!
Thánh-Tông
cùng với
quần-thần;
Vui-mừng
khôn
xiết,
trăm dân
thỏa
ḷng.
Sang năm
Kỷ-Dậu
Thánh-Tông;
Điều
binh
tiến
đánh, đề
pḥng
nước
Chiêm.
V́ chưng
Chế-Củ
kết
liên;
Với vua
nhà
Tống;
thường
xuyên
cướp
càn.
Đường
binh
tiến
xuống
phương
Nam;
Phải qua
sông,
núi…
Muôn vàn
khó
khăn.
Thánh-Tông
xuống
chiếu
lệnh
rằng;
Đại binh
chuẩn-bị
hai trăm
chiến
thuyền.
Thường-Kiệt,
Đại-Tướng
đi tiên;
Thuyền
Rồng
tiếp
nối, di
liền
theo
sau.
Phó
vương,
Thường-Hiến
tháp
hầu;
Binh
thuyền
đợi
lệnh;
khởi đầu
phải
nghiêm.
---------------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(23)- “Xuân gần bốn chục (40) chưa toàn “Tử Ngôi”: Vua Lư Thánh
Tông khi
tuổi đời
đă xấp
xỉ 40;
nhưng
ngài vẫn
chưa có
một
người
con trai
nào để
nối Ngôi
Thái Tử;
nối dơi
Tông
Đường.
Ngài rất
buồn và
lo ngại
cho Ḍng
Tộc…!
(24)- “Trời thương thoả dạ mong cầu.”: Nhưng Trời đă đoái thương
cho Ngài
gặp được
người
con gái
hái dâu
bên
đường
tên là
Khiết
Nương.
Ngài cho
vời về
Cung và
phong
nàng làm
Phi-Tần
Ỷ-Lan. 2
Năm sau
Ỷ-Lan
sinh cho
Ngài một
Trưởng
Nam là
Thái Tử
Càn-Đức.
Quan Năm
Mậu Thân
1068,
Ỷ-Lan
lại sinh
thêm cho
Ngài
Hoàng Tử
Minh-Nhân.
Thánh
Tông và
quần
thần vui
mừng
khôn
xiết.
Trước
giờ rời
bến Vua
truyền:
“Ỷ-Lan ở
lại;
thay
quyền
Triều-cương.
Điều
binh,
khiển
tướng
Triều-đường.
Có Sư
Lư-Đạo
dựa-nương
đỡ-đần.”
--------------------------------------------
Dặn rồi,
Vua
truyền
chuyển
quân;
Chiến
thuyền
tiến
tới,
rần-rần
ra khơi.
Mười
ngày
thẳng
cánh đến
nơi;
Nghệ-An,
Hồng-Lĩnh;
biển
trời xứ
Chiêm.
Năm ngày
tiếp nối
liền-liền;
Thường-Kiệt
đáo bến
cửa biên
đề-huề.
Nhật-Lệ,
tập-họp
đông
ghê;
Thủy-quân
Chiêm
sẵn; tứ
bề
tấn-công.
Thường-Kiệt;
Lư tướng
canh-pḥng,
Phản-công
truy
địch;
ḍng-ḍng
tháo
lui.
Mặc cho
lính
thủy
Chiêm
lùi;
Lư quân
tiến
thẳng,
mũi dùi
Kinh Đô.
Phật-Thệ,
ba phía
núi nhô;
Hướng
Đông là
biển,
khó vô
quân
ḿnh.
Tuy
nhiên,
vẫn đổ
thủy
binh;
Thường-Kiệt
làm chủ
t́nh-h́nh
nơi đây.
Tu-Mao,
lính
thủy
Chiêm
đầy;
Lư quân
vây
đánh,
điểm này
tứ vi.
Quân
Chiêm,
thất
trận
suy-vi;
Tướng
Chiêm bị
giết:
Bố-B́
Đà-La.
Thủy
quân, số
chết
hằng-hà;
Quân
Chiêm
thất
trận;
rất là
lao-đao…!
Lư(Thường)-Kiệt
vượt ải
Tu-Mao
Qua hai
sông
nữa,
tiến vào
Đô
Chiêm.
Phật-Thệ,
đang lúc
giữa
đêm;
Quân dân
hoảng-loạn,
khóc rên
bi-hoài.
Quốc
vương
Chế-Củ
chạy
dài.
Mang
theo
con, vợ;
một vài
cận
quan.
Chiêm
quân, bị
hăm dọc
ngang;
Hàng-hàng,
lớp-lớp
ra hàng
quân ta.
-----------------------------------------------
Thường-Kiệt
bên bến
Đồng-La;
Tiếp-thu
chiến-tích;
cùng là
tàn
quân.
Thánh-Tông,
không
thỏa
hàng
thần;
Bắt Vua
không
được,
kéo quân
quay về.
Cư-Liên;
dừng
lại, Vua
nghe:
“Ỷ-Lan
giám
Quốc;
trọn bề
Triều-cương.
Quần-thần,
đoàn-kết
yêu-thương;
Toàn dân
khen-ngợi,
phi-thường
Nguyên-Phi…!”
Thánh-Tông
nghĩ:
“Phận
nam nhi;
Dẹp
Chiêm
không
trọn;
chẳng b́
nữ-lưu…?”
“Tiếp
phen,
phải đạt
tối ưu;
Truy-t́m
Chế-Củ,
chuyển
lưu công
thành.”
Thánh-Tông,
trở lại
thật
nhanh;
Lệnh cho
Thường-Kiệt
phải
lanh
truy-tầm.
Lư quân
di
chuyển
rần-rần…
Tháng
tư, tiến
đến ranh
phần
Cao-Miên
(Chân-Lạp).
Phan-Rang,
Phan-Thiết
một
miền;
Nơi xây
tháp bảo
uy-quyền
Chiêm
Pandu
(Pandurango).
Chân-Lạp,
vốn nước
cựu thù;
Chế
Vương bí
lối; cho
dù muốn
sang.
Vua
Chiêm
đành
phải
đầu-hàng.
Cùng
chung số
phận;
năm vàn
(vạn)
quân
Chiêm.
Thánh-Tông
thỏa dạ
uy-quyền;
Mang về
Chế-Củ,
quân
Chiêm;
hoàn-thành.
Thường-Kiệt,
danh
tướng
hùng-anh;
Chiến
công
lừng-lẫy;
uy-danh
ngút
trời…!
Tháng
năm;
Vua,
Tướng
nghỉ
ngơi;
Chiêm-Đô
Phật-Thệ;
sau rời
về Kinh.
Tháng
sáu về
tới
Tư-Minh
(Tư-Dung);
Tháng
bảy nhập
điện
Cung-Đ́nh
Thăng-Long.
Đến đền
Thái-Miếu,
Thánh-Tông;
Đổi
danh:
“Thần-Vũ”;
chiến-công
Triều-Đ́nh.
Vương
Chiêm
Chế-Củ
van-xin;
Dâng ba
Châu-Huyện;
kết-t́nh
bang-giao.
Ma-Linh,
Bố-Chính
trở vào;
Thêm
châu
Địa-Lư;
thổ-hào
Việt-Nam.
B́nh
Chiêm,
chiến
tích
rỡ-ràng;
Thần
vương
Thường-Kiệt,
danh
vang
ngàn
đời…!
Thánh-Tông
thỏa-dạ
nghỉ-ngơi;
(25)
Về bên
Tiên-Tổ,
muôn đời
danh
vang…!
(25)
----------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(25)- Sau khi hoàn-thành sứ mạng b́nh Chiêm; lấy được 3 Châu.
Thánh-Tông
tạm nghỉ
ngơi.
Đến
Tháng
Giêng
năm Nhâm
Tư (tức
1 tháng
2 năm
1072),
Lư-Thánh-Tông
băng hà
ở điện
Hội
Tiên,
trị v́
được 17
năm,
hưởng
thọ 49
tuổi và
được an
táng ở
Thọ
Lăng.
Sau khi
Thánh-Tông
mất,
Thái tử
Càn-Đức
mới 7
tuổi lên
thay,
tức là
vua
Lư-Nhân-Tông.
4-
Lư-Nhân-Tông
(1072 -
1127).
Nối Ḍng
sẵn có
trưởng
nam;
Lư danh
Càn-Đức,
con nàng
Nguyên-Phi
(Ỷ Lan).
Lên
Ngôi,
bảy tuổi
thơ nhi;
Nhân-Tông
phong
mẹ;
Mẫu-nghi
đương
Triều.
Linh-Nhân
Thái-Hậu
(26)
diễm-kiều;
Sau rèm
nhiếp-chính;
(26)
nhiễu
điều…
phải
đương.
Đạo-Thành,
phụ
chính
Triều-cương.
Quân
t́nh,
Thường-Kiệt
đảm-đương
quan
hoài.
Ỷ-Lan,
tỏ rỏ
thanh
oai;
(26)
Nhị thần
Thành,
Kiệt;
trong
ngoài
phải
chu.
(26)
Đạo-Thành,
phụ-chính
vài Thu;
Ỷ-Lan
sai đến;
trấn
“thù”
Nghệ-An.
Lư-Thường
ở lại
lo-toan;
Giúp cho
Ấu-Chúa;
trị-an
trong
ngoài.
Văn
quan, vơ
tướng
Triều
Ngài;
Kỳ-tài,
hiển-hách;
sánh vai
hơn thù.
Nhân-Tông,
danh
vọng
thiên-thu;
Minh-quân
Hoàng-Đế;
bạn,
thù… nể,
kinh…!
Triều
Ngài, có
Mẹ
anh-minh;
Luôn-luôn
bên
cạnh,
giúp
ḿnh
Triều-cương.
Thêm
quan
Thái-Úy:
Lư-Thường(Kiệt);
Đa mưu
túc kế;
dẫn
đường
điều-binh.
Nhị phen
dẹp
Tống,
phải
kinh;
Lưu danh
thiên
cổ; quân
t́nh
nước
Nam.
Đại-Việt,
khắp cơi
b́nh-an;
Trai-thanh
gái tú,
hân-hoan
yêu-kiều.
Chính-t́nh
thay đổi
nhiều
điều;
Khởi
đầu,
Cơ-Xá
đê-điều
đắp xây.
Ngăn
ḍng
nước lũ
phủ đầy;
Kinh-đô
Đại-Việt;
hại lây
mùa
màng...!
--------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(26)- Sau khi lên ngôi; vua Lư-Nhân-Tông phong mẹ (là Ỷ-Lan
Nguyên-Phi)
lên làm
Mẫu-nghi
Linh-Nhân
Hoàng-Thái-Hậu.
Buông
rèm
nhiếp-chính
với sự
hổ-trợ
của Thái
sư
Lư-Đạo-Thành.
Thái-Hậu
Ỷ-Lan
được
Lư-Thường-Kiệt
và
Thái-sư
Lư-Đạo-Thành
pḥ trợ,
phế
truất
Dương-Thái-Hậu.
Ỷ-Lan
trở
thành
người có
quyền
nhiếp
chính
nhất
Triều-Đ́nh
Đại Việt
lúc bấy
giờ.
Để
tránh
bất đồng
trong
việc trị
Nước, Bà
sai
Lư-Đạo-Thành(458)
ra
canh-giữ
“quân
thù” ở
Nghệ An;
đồng
thời
phong
Lư-Thường-Kiệt,
làm Thái
úy; giúp
việc
Triều
chính.
Mặc dù
bận giao
tranh
với nhà
Tống
nhưng
vua
Nhân-Tông
và Triều
đ́nh vẫn
rất quan
tâm đến
t́nh
h́nh
chính
trị
trong
Nước.
Ngài cho
đắp đê
Cơ-Xá để
giữ kinh
thành và
tránh
cho dân
làng
khỏi bị
lũ lụt
hàng
năm,
cũng như
tác hại
đến mùa
màng.
Văn-học(27)
kinh-sử
mở-mang;
Khoa thi
tam cấp,
(27)
người
“đang
(đậu)”
khiển
dùng.
Phong
quan,
gánh vác
việc
chung;
Mười
người
thi đậu,
khắp
vùng
nước
Nam.
Đỗ đầu
Lê-Thịnh;
(27)
Thái
quan;
Giúp Vua
học-tập;
mở-mang
Triều-Đ́nh.
Thái-sư
phản-nghịch;
(27)
Vua
khinh;
Bị đày
biên ải;
(27)
nghĩ
t́nh:
Thao-Giang.
T́m
người
văn, vơ
kiêm-toàn;
Vua xây
Quốc(Tử)-Giám;
ngang-hàng
đại-khoa.
Hàn-Lâm-Viện
Sĩ mở
ra;
Có
Mạc-Hiển-Tích;
đầu khoa
Viện-thần.
Nhân-Tông
muốn nhớ
danh-nhân;
Làm
“Hội-Điển
Sách”
sánh
phần cổ,
lai.
Sai ghi
đầy đủ:
hỷ, ai;
Triều-cương,
Vương,
Tướng,
cảm hoài
vĩ-nhân.
Nhân-Tông,
Quan-chế
tương-lân.;
Chia
thành
chín
phẩm,
định
phần
xứng
cân.
Văn-Ban
mang
chức
đại-thần:
Thái-Sư,
Thái-Phó;
Úy thần,
Thiếu
Sư.
Dưới
thời:
Gián-Nghị,
Thượng-Thư;
Tham-Tri
tả, hữu,
Trung-Thư,
Bộ lang.
Quân-t́nh
có một
Vơ-Ban:
Đô,
Nguyên,
Tổng-quản,
ngang-hàng
tướng
quân.
Tỉnh
thành
quan
chức
được
phân:
Tri-Châu,
Tri-Phủ,
Phán
phần
Quận,
Châu.
Vơ quan
Chư-Lộ
đứng
đầu;
Quân-t́nh
gánh-vác,
ngơ-hầu
an dân.
Mỗi
Quan,
chia sẻ
một
phần;
Chu-toàn
trách-nhiệm
định
phân
rơ-ràng.
------------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(27)- Vua Nhân-Tông cũng quan tâm đến lănh vực văn-hóa, giáo dục
và quan
chế. Năm
1075,
Ngài cho
mở khoa
thi Tam
Trường,
c̣n gọi
là Minh
Kinh Bác
Học để
chọn
người có
tài văn
học vào
làm
quan.
Khoa thi
ấy là
khoa thi
đầu tiên
ở Đại
Việt ta
và chọn
được 10
người.
Lê-Văn-Thịnh
đậu thủ
khoa
được
phong
quan;
vào
Triều
dạy Ấu
Chúa về
kinh sử.
Về sau
Thịnh
làm đến
chức
Thái-sư
(như Tể
Tướng).
Nhưng v́
có ư
phản
nghịch,
nên Vua
nghĩ
t́nh chỉ
đày đi
Thao-Giang.
Sau khi
quy-định
tước
quan;
Nhân-Tông
lệnh
Kiệt
sửa-sang
quân-t́nh.
Ỷ-Lan
góp ư
điều
binh;
Chiến-lược
phạt
Tống; di
binh mọi
miền.
Lư-Thường(-Kiệt)
phủ đầu
trước-tiên;
Khiến
quân nhà
Tống
đảo-điên
canh-pḥng.
V́ chưng
Kiệt có
“chân
trong”;
Ông
Từ-Bá-Lư,
báo
pḥng
Tống
quân.
“Khi nao
Đại-Tướng
thấy
cần;
Có Tôi
tiếp-ứng,
góp phần
tấn-công.”
Thủy
quân
Kiệt
đánh
Quảng-Đông;
Lục-quân
Tôn-Đản,
tấn ṿng
Quảng-Tây.
Ung-Châu
là điểm
tụ đầy;
Hùng
quân nhà
Lư
bủa-vây
tư bề.
Tô-Giàm
cố-thủ
ê-chề;
Đợi quân
tiếp-ứng,
kéo về
giải
vây.
Lưu-Di,
nghe-ngóng
nơi đây;
Đang kỳ
bị hăm,
xiết vây
lần-lần.
Lệnh cho
Thủ-Tiết
mang
quân;
Tiến
nhanh
tới-tấp,
góp phần
cứu
nguy…!
Đoàn
quân
Thủ-Tiết
chuyển
di;
Ngang
qua
Tuyên-Hóa,
tức-th́
bị công.
Lư quân
chẹn
đánh,
vây
ṿng;
Tướng
Tàu;
Thủ-Tiết,
chết
trong
trận
này.
Thường-Kiệt
xiết-chặt
ṿng
vây;
Rần-rần
xông
tới;
bao-vây
Ung
Thành.
Lệnh cho
quân
tiến
thật
nhanh;
Bằng
phương
hỏa thổ;
công
thành
diệt-tru.
Tô-Giàm
thất
trận,
căm-thù;
Quân
tàn, lực
tận;
lệnh
tru-diệt
Ḍng:
(28)
Thân
nhân “36
người”;
khá
đông;
Đồng
loạt
tự-sát,
riêng
ông hỏa
h́nh (tự
thiêu).
(28)
------------------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(28)- “Lệnh tru diệt Ḍng.”: Tô-Giàm là Tướng Nhà Tống, thủ Thành
Ung-Châu;
bị
Lư-Thường-Kiệt
đánh
bại. Nên
Hắn đă
ra lệnh
cho cả
nhà phải
cùng tự
vận gồm
36
người.
Riêng
Tô-Giàm
tự
thiêu.
Tất cả
là 37
người.
Tống
quân,
không
chịu
hàng
binh.
Lư quân
giết
sạch,
dân t́nh
vạ lây.
Xác
quân,
dân
Tống…
nằm đầy;
Ước
chừng
“bảy
vạn”,
phơi
thây
khắp
vùng.
Từ Liêm,
Khâm tới
Châu
Ung;
Xác phơi
la-liệt,
chôn
chung
quân
Tàu.
Hai trăm
“Tàu” bị
tóm đầu;
Cùng
nhiều
của-cải;
tịch-thâu
mang về.
Chiến-lược
phạt
tống
nhiêu-khê;
Mất hơn
một
tháng,
thu về
chiến-công.
Mục tiêu
phạt
Tống để
pḥng;
Tống
quân
bất-chợt,
tấn công
khi
b́nh.
Lư-Thường
kiểm-soát
tử binh;
(28a)
Tống-quân
“bảy
vạn”.
Quân
ḿnh vài
thiên;
Hy-sinh
giữa
chốn
trận
tiền;
Bảo toàn
lănh-thổ,
giữ
biên-cương
nhà.
Tháng ba
(1076),
Kiệt rút
quân ra;
Giă từ
đất
Tống, về
nhà
dưỡng
binh.
Pḥng
khi quân
Tống
th́nh-ĺnh;
Trả thù
tấn
chiếm
Nước
ḿnh
hậu-phương.
Qủa như
Thường-Kiệt
đă
lường;
Thần-Tông
nhà Tống
t́m
phương
trả thù.
Nghe tin
Tô-Giàm
bị thua;
Lệnh cho
Qùy,
Tiết
phải lùa
quân
sang.
Hợp cùng
Chiêm,
Lạp
giao-bang;
(29)
Chia làm
hai ngă
tiến
sang
đánh
“Ḿnh”.
Quách-Quỳ,
Triệu-Tiết
điều
binh;
Hợp cùng
chín (9)
Tướng
rập-ŕnh
tiến
sang.
---------------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(28a)- “tử-binh”: Là binh lính cảm-tử (cảm tử binh).
(29)- “Hợp cùng Chiêm, Lạp giao bang;”: Sau khi Lư Thường Kiệt
đánh
thắng
Tô-Giàm
tại Ung
châu.
Vua
Thần-Tông
Nhà Tống
ra lệnh
cho 2
Tướng
Quỳ và
Tiết;
cấu kết
với
Chiêm-Thanh
và
Chân-Lạp;
chia làm
2 ngă
tiến
đánh Đại
Việt.
Nhưng đă
bị Lư
Thường
Kiệt
đánh tan
tại sông
Như
Nguyệt
và sông
Nhị Hà,
Khúc
Táo.
Quân Nhà
Tống đă
bị giết
hằng hà
vô số…
đến hơn
1000
tên!
Tuyến-đầu
bị Kiệt
cản
ngang;
Tại sông
Như-Nguyệt,
hàng-hàng
hùng
binh.
Quách-Qùy,
Triệu-Tiết
thất-kinh;
Tống
quân bại
trận, tử
binh hơn
ngàn.
(29)
Quách-Qùy
dẫn tàn
quân
sang;
Nhị-Hà,
Khúc-Táo;
bày hàng
vượt
sông.
Không
ngờ bi
Kiệt
phản-công;
Cầu phao
bị cắt,
tử-vong
vô-vàn.
Số c̣n
không
thể vượt
sang;
Tống
quân dẫu
mạnh,
không
đang
trận-tiền.
Lư quân,
cũng đă
ngă-nghiêng;
Tướng,
quan
mỏi-mệt;
trận-tiền
chưa
ngưng.
Kiệt
dùng
tâm-thuật
biểu-dương;
Từ đền
Trương-Hát,
tưng-bừng
phát ra:
“Đại-Việt;
“Nam-Quốc
Sơn-Hà”,
(30)
Vua Nam
cai trị,
Đất Nhà
Việt-Nam…!
Tống
Vương,
đừng
ḥng lấn
sang;
Trăm
ngàn
cũng
bại;
quân Nam
không
sờn.
Thượng
Thiên
thấu rỏ
nguồn-cơn;
Ư Trời
đă định;
chuốc
hờn mà
thôi…!”
Tống
quân
nghe rỏ
từng
lời;
Tướng,
binh…
khiếp-sợ;
nghĩ
Trời
không
dung…!
Đoàn
quân;
tháo-chạy
tứ-tung;
Lư quân
đắc-thắng;
truy-lùng
theo
sau.
Dẹp tan
quan,
tướng
giặc
Tàu;
Xua quân
xâm-lược;
tuyến
đầu
Việt-Nam.
Thường-Kiệt
sáng-suốt
tính-toan;
Đánh
hoài
không
thể;
chuyển
sang
nghị-ḥa.
V́ chưng
tiếp
chiến…
Nước ta;
Quân
tàn, lực
tận… khó
mà
trường-chinh…!
----------------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(30)- “Nam Quốc Sơn Hà.”: Là Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đầu tiên của
Việt
Nam.
"Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư."
Lư Thường Kiệt
Tống
vương
đồng ư
thuận
t́nh;
Lệnh cho
Qùy,
Tiết;
điều
binh lui
về.
Đôi bên
ngưng
chiến;
thỏa-thuê.
Quan,
quân
Đại-Việt;
kéo về
dưỡng
quân.
Tống
vương
khác ư,
tần-ngần;
Cho quân
ở lại,
giữ phần
Quảng-Nguyên.
Và Tư,
Tô, Mậu
giáp
biên.
Quảng-Lang
thêm nửa
thuộc
miền
Lạng-Sơn.
Nhân-Tông
không
thỏa
nuôi
hờn;
Chờ thời
ḥa-nghị;
Châu,
thôn thu
hồi.
Đến năm
Mậu-Ngọ
(1078)
(31)
là thời;
Nhân-Tông
sai sứ;
thu-hồi
Nguyên-Châu.
(31)
Đào-Nguyên(31)
nhận
lệnh đi
Tàu;
Đem Voi
sang
biếu vua
Tàu;
Thần-Tông.
Tống
vương,
tỏ ư
bằng
ḷng;
(31)
Kèm theo
điều-kiện;
thỏa
trong
chuyện
này:
Đại-Việt
phải trả
Tàu
ngay;
Tù-binh
nhà
Tống;
bắt ngày
Ung-Châu.
(31)
Nhân-Tông
thỏa
nguyện
vua Tàu.
Nhưng
sai khắc
chữ trên
đầu
tù-binh.
(31)
Thiếu
niên
nhận:
“Thiên-tử-binh”,
Nữ là
“Quan-khách”,
dấu t́nh
cánh
tay.
Nam
trang,
trên
trán
phô-bày:
“Đầu-Nam-Triều
Việt”;
(31)
những
ngày
xâm-lăng.
Nhân-Tông
ngụ ư
nhắn
rằng:
Từ đây,
Tàu chớ
xâm-lăng
bá-quyền.
(31)
Sau khi
lấy lại
Quảng-Nguyên;
Tống-Triều
nuối-tiếc
“vàng”…
tiền;
thơ rơi:
“Nhân
tham
Giao-Chỉ
thuần
Voi;
Khước từ
châu
Quảng;
để rồi
mất
“kim”…!”
--------------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(31) Hai năm sau ngày phá thành Ung-Châu; rồi rút quân về… Đến
năm
Mậu-Ngọ
(1078),
Lư-Nhân-Tông
sai
Đào-Tôn-Nguyên
đem Voi
đi biếu
vua Tàu;
Tống-Thần-Tông;
và đ̣i
lại các
châu,
huyện và
châu
Quảng-Nguyên.
Vua Tống
đồng ư
trả lại
Đại-Việt
các phần
đất đă
chiếm
với
điều-kiện;
Đại-Việt
phải trả
cho nhà
Tống 221
tù-binh
đă bị Lư
quân bắt
trong
các trận
chiến
Châu
Khâm,
Châu
Liêm và
Châu Ung
hồi năm
1076.
Sứ-thần
Đào-Tôn-Nguyên
đồng ư
và báo
tin vui
về Triều
Đại-Việt.
Sang năm
Kỷ-Mùi
(1079),
trước
khi thả
(221
người
tù),
Lư-Nhân-Tông
lệnh cho
khắc
trên
trán các
tù binh
thiếu
niên
chữ:
“Thiên-Tử-Binh”.
Nam từ
20 tuổi
trở lên
khắc
chữ:
“Đầu-Nam-Triều”
và đàn
bà con
gái th́
khắc
trên
cánh tay
trái hai
chữ:
“Quan-Khách”.
Sau khi
nhận lại
được các
Tù-binh,
Nhà Tống
trả lại
các phần
đất vùng
Quảng-Nguyên
của
Đại-Việt;
đă chiếm
giữ từ
năm
1076.
Tuy
nhiên
nhà Tống
cảm thấy
rất là
nuốc
tiếc; v́
nghe đồn
rằng
vùng đất
Quảng-Nguyên
là nơi
có nhiều
mỏ vàng,
nên làm
hai câu
thơ
rằng:
“Nhân
tham
Giao-Chỉ
Tượng.
Khước
thất
Quảng-Nguyên
kim”
Sang năm
Giáp-Tư
(1084),
(32)
thời
b́nh.
Nhân-Tông
sai
Thịnh;
điều-đ́nh
phân
ranh.
(32)
Biên
cương
Tống,
Việt
phải
rành;
Đôi bên
không
được lấn
ranh
láng-giềng.
Tống
vương
thuận-thảo
đường
biên;
Từ đây
hai nước
láng-giềng
tương-giao.
(32)
Nhân-Tông
là đấng
anh-hào;
Thường-Kiệt
danh
Tướng;
ngôi cao
không
màng.
Ba Triều
Nhà Lư;
hiên-ngang…
B́nh
Chiêm,
phạt
Tống;
rỡ-ràng
nước
Nam…!
Thần-Tông,
vua Tống
nể-nang;
Phong
Vua
Đại-Việt,
là
“Nam-Vương-B́nh”…!
(32)
V́ Tàu
thời đó
(1126)
chiến-chinh;
Mất luôn
phương
Bắc; Nhà
Kim
thu-hồi.
Kinh Đô
nhà Tống
phải
dời;
Đổi
danh:
Nam-Tống,
Đô thời
Hàng-Châu.
Phương
Nam
Đại-Việt
từ lâu;
Thường-Kiệt
chiếm cứ
ba Châu
Chiêm-Thành.
Quư-Mùi,
(1103)
lại khởi
chiến
tranh;
Diễn-Châu,
Lư-Giác
tranh-giành
phản
Vua.
Lư-Thường
(Kiệt)
đánh
Giác
te-tua…
Giác
thua
chạy
trốn,
cầu Vua
Chiêm-Thành.
Chế-Ma
Na
thuận-thảo
cùng
tranh;
Ma-Linh,
Bố-Chính,
(Châu)Lư…
(Chiêm)Thành
đă dâng.
Nhân-Tông
sai Kiệt
điều
quân;
Diệt-tru
Lư-Giác,
lẫn quân
Chiêm-Thành
Chế-Ma
Na thua
trận,
hàng
thần;
Trả về
Đại-Việt,
ba phần
khi xưa.
Tạ-ơn Lư
Tướng,
Đức Vua;
(Lư)Nhân-Tông,
Thường
Kiệt:
Tướng,
Vua
kiêu-hùng!
-----------------------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(32)-
Năm
Giáp-Tư
(1084)
Lư-Nhân-Tông
sai
Binh-bộ
Thị-Lang
Lê-Văn-Thịnh
sang
điều-đ́nh
với nhà
Tống; để
phân
chia lại
ranh
giới
giữa hai
nước
Tống,
Việt cho
rơ
ràng
(Sử
không
nêu rơ
địa danh
nào)…
Tống-Thần-Tông
nể v́
vua
Nhân-Tông
của
Đại-Việt
là một
vị Vua
anh-hào,
minh
quân…Nên
đă phong
cho vua
Lư-Nhân-Tông
là:
“Nam-B́nh-Vương”
và ngợi
khen
Lư-Thường-Kiệt
là một
danh
Tướng có
tài… Nên
đă thuận
ḷng
phân
ranh rơ
ràng với
Đại-Việt.
Vả lại
sau khi
(1126)
bị Nhà
Kim đánh
chiếm
mất
phương
Bắc. Nhà
Tống
phải rời
Đô về
Hàng-Châu
và đổi
quốc
hiệu lại
là:
Nam-Tống.
Từ đó
giữa hai
nước
Đại-Việt
và
Nam-Tống
đă có
một thời
gian
khái dài
được
ḥa-hảo
yên-ổn.
Trần-Nhân-Tông,
tiêu-diệt
Giặc
Mông-Nguyên
(1284 -
1288)
Thời
Trần
cũng rất
anh-hùng…!
Thánh-Tông
Hoàng-Đế;
(33)
vẫy-vùng
thanh
oai…!
Mậu-Dần
(1278)
thoái
Vị,
nhường
Ngai;
Truyền
Ngôi con
trưởng
thay
Ngài:
Trần-Khâm.
(34)
Thánh-Tông;
(33)
Vương-hiệu
cao-thâm;
Được tôn
Thái-Thượng;
trọn
phần
Nước-Non.
Lui về
Cung-Điện
vàng-son;
Nơi
Thiên-Trường-Phủ;
giúp con
đăng
Triều.
Trần-Khâm(34)
chọn
hiệu
cao-siêu;
Nhân-Tông,
(34)
mẫn-tiệp;
mọi điều
anh-minh…!
Vương-hầu,
khanh-tướng
Triều-Đ́nh;
Ai-ai
cũng
thỏa,
vững tin
nơi
Ngài.
Nhân-Tông,
(34)
tài-trí
hơn ai;
Hai lần
Mông-Cổ;
(35)
đánh
Ngài
không
đang…!
Giáp
Thân(1284)
Mông-Cổ
(35)
sài-lang;
Sài-Xuân
(Thung)
sang Sứ;
(35)
ngang-tàng
hạch
thưa:
“Sao
không
xin phép
Nguyên
Vua;
Đại-Việt
tự-lập,
tôn Vua
Trần-Triều…!?
Muốn yên
phải tới
Thiên-Triều;
Chầu
vương
Tất-Liệt;
(35)
mọi điều
mới
xong.”
Nhân-Tông(34)
b́nh-tĩnh,
thong-dong:
“Qủa-Nhân(34)
vốn được
sinh
trong
Cung-Đ́nh”;
“Sao ta
có thể
đăng-tŕnh;
Chầu vua
Mông-Cổ;
(35)
ỷ ḿnh
Đại-Nguyên…!?”
Sài-Xuân
(Thung)
nghe…
cảm
lụy-phiền;
Về tâu…
Tất-Liệt
giận
điên,
điếng
hồn.
Bèn sai
Sứ-Giả
thông
luôn;
“Việt-Nam
phải
cống(35)
“Vàng
hồn
Nhân-Tông.”
(34)
Ngọc-ngà,
hiền-sĩ,
thầy
“Đồng”;
Chuyên-viên,
mỗi hạng
hai ông
thế
vào…!”
------------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(33)- Năm Mậu-Dần (1278), Trần-Thánh-Tông nhường Ngai cho con
Trưởng
là
Trần-Khâm
và lui
về làm
Thái-Thượng-Hoàng
ở
Thiên-Trường
Phủ; để
giúp con
trị Nước
sau
này.
(34)-
Thái-Tử
Trần-Khâm
lên
ngôi,
lấy hiệu
là
Trần-Nhân-Tông,
sinh
ngày
07-12-1258.
Là con
vua
Trần-Thánh-Tông
và mẹ là
Hoàng-hậu
Trần-Thiều.
Ngài là
vị
Hoàng-Đế
thứ 3
của Nhà
Trần.
Trị v́
14 năm
(1279-1293)
và làm
Thái-Thượng-Hoàng
13 năm,
thọ 51
tuổi
(1258-1309).
Nhân-Tông
là vị
Vua anh
minh tài
giỏi,
được mọi
người từ
Triều-thần
đến thứ
dân đều
kính
phục.
Dưới
Triều
Đại của
Ngài, đă
hai lần
đánh bại
quân
Nguyên-Mông;
lần đầu
vào năm
1282 và
lần hai
vào năm
1287-1288.
(35)-
Năm
Giáp-Thân
(1284),
Hốt-Tất-Liệt
sai
Sài-Xuân
sang
Đại-Việt
hạch hỏi
vua
Nhân-Tông:
“Sao
Đại-Việt
tôn Vua
Trần-Triều
mà không
xin phép
vua Nhà
Nguyên?
Nếu muốn
yên
chuyện,
vua
Đại-Việt
phải
sang
chầu vua
Nguyên.”.
Nhưng
vua
Nhân-Tông
thẳng
thắn trả
lời
rằng:“Bản
thân Ta;
sinh ra
nơi chốn
Cung-Đ́nh,
sao phải
sang
chầu vua
Nhà
Nguyên
cho
được?”
Nhân-Tông
bất
thuận
Nguyên-Trào;
Sai
Trần-Di-Ái;
(36)
sang
trao ư
t́nh.
Nguyên-Mông
hùng-hổ
bất-b́nh;
Lệnh lập
Tuyên-Phủ
(-Ty);
b́nh-định
nước
Nam.
Quan
Nguyên
Giám-Trị
vừa
sang;
Nhân-Tông
lệnh
đuổi
“Sói-Lang”
về Tàu.
Nguyên-Mông
hội-họp
bàn
nhau;
Phong
cho
Di-Ái;
(36)
Vương
đầu
An-Nam;
(36)
Lê-Tuân(36)
Thượng(Thư)-Lệnh,
quan
hàm;
Hàn-Lâm
Lê-Mục,
(36)
An-Nam
tân
Triều.
Sài-Xuân
nhận
lệnh
quan-liêu;
Điều
ngàn
quân;
dẫn tân
Triều(36)
về Nam.
Vừa khi
tới
Ải-Nam-Quan;
Nhân-Tông
ban lệnh
đánh tan
“phản
Thần.”
(36)
Sài-Xuân
tháo-chạy
thoát
thân;
Bị mù
một mắt
bởi tầm
mũi tên.
Sài-Xuân
vừa chạy
vừa rên;
Quân
Nguyên
thất
trận,
lền-khên
về Tàu.
Phận
thân
Thần
phản
cùng
nhau;
Mục,
Tuân,
Di-Ái;
(36)
héo-dàu
tâm-can…
Nhân-Tông,
giáng
xuống
binh
phàm;
Tội-đồ
lính
trận;
thay làm
tù-binh.
Vua
Nguyên
(37)
nghe
được…
giật
ḿnh.
Sai con;
tập-kết
đội
h́nh,
quân
lương.
Thoát-Hoan(38)
làm
Trấn-Nam-Vương;
Dẫn năm
chục
vạn;
mượn
đường
đánh
Chiêm.
Toa-Đô,
Ô-Mă(-Nhi)
kết-liên;
Cùng
nhau
xâm-nhập
qua miền
Lạng-Sơn.
Biên-thần
Lương-Uất
(39)
nghe
đồn;
Sai
người
phi báo
“Chí Tô”
(34)
Triều-Đ́nh.
Nhân-Tông
(34)
nhận
được
khẩn
tin;
Ngự
thuyền
tham-khảo
t́nh-h́nh…
B́nh-Than.
-------------------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(36)- Năm Canh-Th́n (1280) Vua Nhân Tông sai chú họ là Trần-Di-Ái,
Thượng-Thư
Lê-Tuân
và
Hàn-Lâm
Học-Sĩ
Lê-Mục;
đại diện
Ngài
sang
thương
nghị với
vua Nhà
Nguyên.
Qua năm
Nhâm-Ngọ
(1282),
trước sự
cương-quyết
của vua
Nhân-Tông,
Hốt-Tất-Liệt
đă nổi
giận và
bàn cùng
Triều-thần;
tôn
Trần-Di-Ái
lên làm
An-Nam
Quốc-Vương
(thay v́
Đại-Việt),
Lê-Mục
làm
Hàn-Lâm
Học-Sĩ,
Lê-Tuân
làm
Thượng-Thư-Lệnh.
Rồi sai
Sài-Thung
đem theo
1.000
quân;
dẫn
Trần-Di-Ái
và đoàn
tùy-tùng
về
Việt-Nam.
Trần-Di-Ái
và đồng
bọn v́
ham
quyền
lực, đă
làm theo
sự sắp
đặt của
vua
Nguyên.
Khi đoàn quân của Sài-Xuân (Sài-Thung) dẫn bọn nghịch thần
Trần-Di-Ái
về tới
Ải-Nam-Quan,
vua
Nhân-Tông
nhận
được tin
cấp báo;
liền sai
quân
Đại-Việt
đi đánh
dẹp.
Sài-Xuân
bị trúng
tên, mù
một mắt.
Quân
Nguyên
đại bại
phải
trốn về
Tàu. C̣n
đám phản
thần
Trần-Di-Ái,
Lê-Mục,
Lê-Tuân…
bi giáng
xuống
làm binh
linh
b́nh
thường
đi đánh
trận;
thay v́
bị bỏ
vào tù.
Đến tháng 8 năm Nhâm-Ngọ (1282), Hốt-Tất-Liệt (37) lại sai con
là
Thái-Tử
Thoát-Hoan,
(38)
làm
Trấn-Nam-Vương,
cùng với
Toa-Đô
và
Ô-Mă-Nhi,
đem 50
vạn quân
xâm nhập
vào vùng
Lạng-Sơn.
Lấy lư
do mượn
đường
sanh
đánh
Chiêm
Thành.
Quan
trấn thủ
biên
cương
Đại-Việt
là
Lương-Uất,
(39)
nghe
được tin
liền sai
người về
cấp báo
với vua
Nhân-Tông.
(34)
Nghe
được
tin,
Ngài
liền cho
triệu-tập
các
Vương
hầu và
bá quan
văn, vơ…
bên sông
B́nh-Than
(Hội
Nghị
B́nh-Than)
để
tham-khảo
ư kiến
mọi
người
nên đánh
hay
đừng…?
Người
th́ bàn
nên cho
quân
Nguyên
mượn
đường đi
sang
đánh
Chiêm.
Người
thi nói
nên
triều-cống
nhà
Nguyên
cho yên
chuyện.
Duy chỉ
có
Trần-Quốc-Tuấn
(Hưng-Đạo-Vương)
và
Trần-Khánh-Dư
là xin
đem quân
đi chống
giữ. Đặc
biệt
trong kỳ
Hội Nghị
B́nh
Than
này; có
Hoài-Văn-Hầu
Trần-Quốc-Toản
v́ tuổi
c̣n nhỏ
không
được vào
tham dự
hội
nghị.
Cậu ngồi
bên
ngoài
cửa theo
dơi sự
việc… và
đă bóp
nát trái
cam
trong
ḷng bàn
tay từ
khi nào
không
hay
biết.
Khi trở
về, cậu
chiêu
tập gia
nô và mộ
thêm
được hơn
ngàn
binh
lính,
sắm
thuyền,
binh
khí,
quyết
chí đánh
giặc
Nguyên.
Vương-Hầu,
khanh-tướng
cùng
bàn;
T́m mưu,
kiếm kế;
dẹp-tan
quân
Tàu.
Khánh-Dư,
Quốc-Tuấn
hợp
nhau;
Cùng tâu
Chúa-Thượng:
“Đánh
Tàu,
không
dung.”
(40)
Nhân-Tông
nghe nói
thuận
ưng;
Lệnh
Trần-Quốc-Tuấn;
(40)
chấn-hưng
quân-t́nh.
Phong
làm
“Tiết-Chế”
(40)
điều
binh;
Vương-Hầu,
khanh-tướng;
cùng
b́nh
quân
Nguyên.
Giáp-Thân
(1284),
Hưng-Đạo
lệnh
truyền:
(41)
“Tướng,
binh;
phải giữ
luật
nghiêm
quân-t́nh.
Với dân,
phải giữ
niềm-tin;
Đồng-tâm
đánh
giặc,
thắng
ḿnh
không
kiêu.
Lỡ thua,
ḷng vẫn
không
xiêu;
Lựa thời
dịp
khác;
quyết
liều
thắng
Nguyên.”
Sau khi
thông
báo
“Hịch”
tuyền;
Hưng(-Đạo)-Vương
phân-bố
yếu miền
đóng
quân.
(42)
Trần-B́nh(-Trọng)
trấn giữ
B́nh-Than;
Trần(-Khánh)-Dư
xung
chiến;
dàn
ngang
Vân-Đồn.
Vương-Hầu;
yếu điểm
làng
thôn;
Hưng(-Đạo)-Vương
Vạn-Kiếp,
quân đôn
khắp
vùng.
Khi nghe
Nguyên
tặc(43)
tàn
hung;
Xua quân
xâm-nhập
khắp
vùng
Lạng-Sơn.
(43)
Nhân-Tông,
sợ địch
sóng
dồn;
Sai
người
thương
nghị
“Chí
Tôn”
Nguyên-Triều:
“Xin
cùng
ḥa-hiếu
hai
Triều;
Nguyên-Mông,
Đại-Việt;
nhiễu…
điều
không
hay.”
Vua
Nguyên,
nghe Sứ
giăi-bày;
Thâm-tâm
không
thuận,
quyết
bày trận
xâm.
Thoát-Hoan,
thái-tử
ác-tâm;
Điều
quân
xâm-lấn,
(43)
ngang
tầm
Lạng-Sơn.
----------------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(40)- Tháng 10 năm Quư-Mùi (1283), vua Nhân-Tông phong cho
Trần-Quốc-Tuấn
làm
“Quốc-Công
Tiết-Chế”
(Tổng Tư
Lệnh)
thống
lĩnh
toàn
quân
Đại-Việt
đế chống
quân
Nguyên.
(41)- Sang năm Giáp-Thân (1284), Hưng-Đạo-Vương (Trần-Quốc-Tuấn)
ban
Lệnh:
1. Toàn quân từ Tướng tới binh đều phải giữ nghiêm luật. 2.
Phải giữ
niềm-tin
với toàn
dân.
3. Phải
đồng-tâm
đánh
giặc.
4. Thắng không kiêu và lơ-là. Thua không nản chí hay đầu hàng.
5. Phải
kiên-tŕ
đợi thời
với chí
quyết
thắng.
(42)- Sau khi ban nghiêm Lệnh, Hương-Đạo-Vương phân vùng trách
nhiệm
cho các
Tướng
Quân:
Trần-B́nh-Trọng,
trấn giữ
B́nh-Than.
Trần-Khánh-Dư,
trấn giữ
Vân-Đồn.
Các
Vương-Hầu,
trấn giữ
các yếu
điểm
làng
thôn…
Riêng Hưng-Đạo-Vương th́ tập-trung đại quân ở Vạn-Kiếp; để bổ
xung
quân
yểm-trợ
cho tất
cả các
nơi…
(43)- Về sau, được tin Quân Nguyên đang tập trung tại Hồ-Quảng
sắp tiến
sang mặt
Lạng-Sơn,
Vua
Nhân-Tông
sợ quân
Đại-Việt
chống
không
nổi;
liền sai
Sứ sang
Tàu xin
nghị ḥa
hoăn
binh.
Nhưng
Hốt-Tất-Liệt
(Vua
Nguyên)
không
chịu.
Trái lại
c̣n sai
con là
Thái-Tử
Thoát-Hoan
điều
quân
sang
xâm-lấn
Đại-Việt.
Nhân-Tông
nghe
được tin
đồn;
Triệu-tập
bô-lăo
tinh-khôn…
Diên-Hồng:
(44)
“Đại-Việt
nên
thoái,
hay
công…
Quân ta
lực yếu;
khó ḷng
chống
đương!?”
Toàn dân
nhất-chí;
một
phương:
“Hy-sinh
cứu
Nước;
chớ
nhường
giặc
Nguyên!”
(44)
Đánh cho
tan xác
bạo
quyền;
Kẻ thù
truyền
kiếp
Mông-Nguyên
phải
gờm.”
Nhân-Tông
nghe
thỏa
nguồn-cơn;
Lệnh cho
Hưng-Đạo;
lực dồn
phạt
Mông.
(44)
Thoát-Hoan;
Nguyên
tặc qúa
ngông;
(45)
Lùa năm
mươi
vạn;
(45)
qua đồng
Lạng-Sơn.
Sai tên
A-Lư hỏi
dồn:
“Nguyên
quân
mượn
ngơ; dạy
khôn
Chiêm-Thành.
(45)
Đại-Việt
nếu cứ
chối
quanh,
Quân
Nguyên
sẽ phá
tan-tành
Việt-Nam.”
(45)
Hưng(Đạo)-Vương
nghe
nói…
giận
căm;
Tiến lên
Ki-Cấp;
Nguyên
nằm
Lộc-Châu.
Lệnh
quân giữ
các
tuyến
đầu;
Khả-Li,
Khưu-Cấp,
Lộc-Châu
canh-pḥng.
Quân
Nguyên,
lực-lượng
qúa
đông;
Tướng
quân
Đại-Việt;
chống
pḥng
gian-nan.
Giặc
Nguyên;
như lũ
lan-tràn…
Li, Châu
thất-thủ,
quân Nam
phải
lùi;
Chi-Lăng
cố-thủ
không
lui,
Giặc
Nguyên
tràn
đến, tạm
lùi
Bái-Tân.
Yết-Kiêu,
Dă-Tượng
(46)
trung-thần;
Cùng
theo
Hưng-Đạo,
điều
quân lui
dần.
Trở về
Vạn-Kiếp
gom
quân;
Được hai
mươi
vạn;
tướng
quân
kiên-cường.
---------------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(44)- Tháng chạp năm Giáp-Thân (1284), khi nghe được tin Thoát-Hoan
đă đem
quân tới
Ải
Nam-Quan,
và sắp
tiến vào
Lạng-Sơn.
Thái-Thượng-Hoàng
(Vua
Trần
Thánh-Tông)
cùng với
con là
vua
Trần-Nhân-Tông
đă cho
triệu-tập
các
Bô-Lăo
trưởng-thượng
và bá
quan
văn, vơ
Triều-Đ́nh
tại điện
D́ên-Hồng;
để
tham-khảo
ư kiến:
“Đại-Việt
nên ḥa
hay
chiến
với quân
Nguyên.?”
và t́m
phương
để chống
đỡ.
Kết-qủa,
toàn
quân,
dân
trong
Hội-Nghị
Diên-Hồng
đều đồng
thanh
xin
đánh:
“Đánh
cho tan
xác bạo
quyền;
Kẻ thù
truyền
kiếp
Mông-Nguyên
phải
gờm…!”
Sự nhất
chí
quyết
tâm của
toàn
quân
dân,
khiến
vua
Nhân-Tông
và
Thái-Thượng-Hoàng
yên tâm;
đồng
thời
lệnh cho
Trần-Hưng-Đạo
dồn toàn
lực để
chống
lại quân
Mông-Nguyên.
(45)- Bấy giờ Thoát-Hoan đem 50 vạn quân; chia làm hai đạo tiến
đánh
Đại-Việt.
Ở phía
Bắc, đại
quân
Mông-Nguyên
tiến vào
Lạng-Sơn
qua các
ải
Kha-Li
(hay
Khả-Lư),
Nữ-Nhi,
Lộc-Châu…
rồi tiến
vào ải
Chi-Lăng…
Phía
Nam, sai
Toa-Đô
dẫn 10
ngàn
thủy
quân từ
Quảng-Châu
đi đường
biển;
tiến
đánh
Chiêm-Thành
rồi ra
Nghệ-An;
để đánh
ra Bắc.
Tại
Nghệ-An,
quân
Toa-Đô
gặp phải
sự chống
cự của
Thượng-Tướng
Trần-Quang-Khải
nên
không
làm ǵ
được.
(46) Dă Tượng và Yết Kiêu là hai gia thần thân tín của Trần Hưng
Đạo. Dă
Tượng là
người có
tài
thuần
phục và
chỉ huy
đội voi
(Dă
Tượng có
nghĩa là
voi
rừng:
tượng
binh) ở
Vạn
Kiếp,
c̣n Yết
Kiêu là
người
chỉ huy
đội lính
đánh
sông.
Đoạn văn
sau
trích từ
Đại Việt
sử kư
toàn thư
có nhắc
đến ông:
Trước
đây,
Hưng Đạo
Vương có
2 người
nô là Dă
Tượng và
Yết
Kiêu,
đối xử
rất hậu.
Khi quân
Nguyên
tới, Yết
Kiêu giữ
thuyền ở
Băi Tân,
Dă Tượng
th́ đi
theo.
Đến lúc
quan
quân
thua
trận,
thuỷ
quân tan
cả. Hưng
Đạo
Vương
định rút
theo lối
chân
núi. Dă
Tượng
nói:
"-Yết
Kiêu
chưa
thấy Đại
Vương
th́ nhất
định
không
rời
thuyền".
Dă tượng
đă lập
nhiều
chiến
công
trong
Kháng
chiến
chống
Nguyên -
Mông,
đời
Trần.
Ông cùng
với Yết
Kiêu,
Cao
Mang,
Đại Hành
và
Nguyễn
Địa Lô
là 5
thuộc hạ
tài giỏi
và trung
thành
của Hưng
Đạo
Vương.
Trong
cuộc
kháng
chiến
chống
Mông-Nguyên,
ông đóng
góp đắc
lực, tận
t́nh bảo
vệ chủ
tướng.Chính
ông và
Yết Kiêu
có công
lớn
trong
trận bắt
sống Toa
Đô. Ông
nổi
tiếng là
một
tướng
dũng-cảm
tài-giỏi
dưới
trướng
của Trần
Hưng
Đạo. Yết
Kiêu
(1242-1301);
là anh
hùng
chống
giặc
ngoại
xâm vào
đời nhà
Trần,
người có
công
giúp Nhà
Trần
chống
giặc
Nguyên
Mông vào
thế kỷ
XIII với
biệt tài
thủy
chiến.
Ông là
người
bơi lặn
giỏi, đă
xử dụng
tài của
ḿnh để
đục
thuyền
của quân
xâm lược
Nguyên
Mông.
Nghe tin
Hưng-Đạo
đại
vương;
(47)
Lui quân
Vạn-Kiếp;
(47)
t́m
đường
kháng
Mông.
Nhân-Tông
ái-ngại
trong
ḷng;
(47)
Ngự
thuyền
đến bến;
bên ḍng
Hải-Dương
(Hải-Đông).
Ngài mời
Chủ-Tướng(47)
Hưng(Đạo)-Vương;
Bàn mưu,
tính kế,
(47)
t́m
đường
phản
công.
Trước
tiên,
Ngài hỏi
ư Ông:
“Quân ta
lực yếu,
(47)
giặc
đông bội
phần.
Hay Ta
hàng
địch,
cứu dân;
(47)
Tránh
muôn tai
kiếp;
hại dân
sau
này…!?”
Hưng-Vương
nghe
Ngài;
tỏ-bày…(47)
Dẫu ḷng
thổn-thức;
đắng-cay
vô
ngần…!
Nhưng
tâu: “
Chúa
Thượng
thương
dân;
(47)
Là ơn
Trời,
Phật,
phúc dân
được
nhờ…!(47)
Nhưng
c̣n
Xă-Tắc
quân-cơ;
(47)
Danh
hùng
Tôn-Miếu,
cơi-bờ
th́
sao…!?(47)
Nếu Ngài
hàng
giặc,
xin
trao;
(47)
Đầu Tôi,
thân
xác; thế
vào cống
Nguyên.”
Nhân-Tông
nghe
nói… dạ
yên;
Lệnh cho
Hưng-Đạo;
toàn-quyền
phân-công.
(47)
---------------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(47)- Khi nghe được tin Hưng-Đạo vương không chống cự nổi với 50
vạn quân
của
Thoát-Hoan,
tiến
đánh vào
núi
Ki-Cấp,
Khả-Li
và
Lộc-Châu…
phải lui
quân về
Ải
Chi-Lăng.
Sau đó,
Thoát-Hoan
lại tiến
đánh
Chi-Lăng,
Hưng-Đạo
vương v́
yếu thế
lại phải
rút về
bến
Bái-Tân,
rồi cùng
với
Dă-Tượng
và
Yết-Kiêu
xuống
thuyền
về cố
thủ ở
Vạn-Kiếp.
Vua
Nhân-Tông
bèn
xuống
thuyền
về
Hải-Đông(Hải-Dương)
và cho
mời
Hưng-Đạo
đến; bàn
mưu tính
kết phản
Mông-Nguyên.
Tuy
nhiên,
v́ Vua
cảm thấy
lo sợ
trước
lực-lượng
50 vạn
quân
hùng-hậu
của
Thoát-Hoan;
nên Ngài
đă ḍ ư
với
Hưng-Đạo
rằng:
“Thế
giặc
mạnh như
vậy, nếu
ta chống
cự với
chúng,
th́ dân
ta sẽ bị
tàn hại
vô cùng,
hay Trẩm
hăy ra
đầu hàng
giặc để
cứu lấy
muôn dân
ḿnh…?”
Nghe Vua nói vậy, Hưng-Đạo vương tâu rằng: “Bệ-Hạ có ḷng nhân
đức,
thương
yêu và
nói như
vậy; th́
phúc cho
muôn
dân!
Nhưng
c̣n
Tôn-Miếu,
Xă-Tắc…
th́
sao…???
Nếu
Bệ-Hạ
muốn
hàng,
xin hăy
chém đầu
Tôi
trước
đă, sau
đó hăy
ra
hàng!”
Khi nghe
được lời
qủa-quyết
trung-liệt
như vậy
của
Hưng-Đạo
vương.
Vua
Nhân-Tông
cảm thấy
tin-tưởng
và yên
ḷng;
đồng
thời
giao cho
Hưng-Đạo
toàn
quyền
thống
lănh
toàn
quân để
chống
lại giặc
Mông-Nguyên...
Hưng-Vương,
ban
“Sách
Quốc-Pḥng”.
(48)
“Địa
phương
hiểm-yếu;
vườn
không,
trống
nhà.
Nếu Mông
áp-đảo
quân ta;
Tướng,
binh
quyết-chiến,
không ra
đầu-hàng.
Khi Mông
tiến tới
lan-tràn;
T́m rừng
trú-ẩn,
không
làm hàng
binh.
Phản-công,
phải lựa
t́nh-h́nh;
Nơi nào
Mông
yếu,
quân
ḿnh
diệt
ngay…!
Tướng
quân,
phải rơ
“Sách”
này;
Địch
đông, ta
thoái…
chờ ngày
phản-công.”
“Binh-Thư
Yếu-Lược”
quốc-pḥng;
Ta soạn
phổ-biến;
phải
thông,
thi-hành:
“Ngày
xưa,
Kỷ-Tín
(49)
liều
thân;
Cứu vua
Hán-Đế,
thoát
thành
Hoàng-Dương.
Do-Vu
(50)
đỡ giáo,
một
phương;
Cứu Vua
nước Sở,
Chiêu-Vương
Hùng-Trần.
Dự-Nhượng,
(51)
người
Tấn nuốt
than…
Phục thù
nuôi
chí;
trung-thần
Trí(Bá)-Dao.
(51)
Tề-phu
Thân-Khoái,
mưu cao;
Chặt tay
cứu
Nước,
sát-sao
vua Tề.
“Uất-Tŕ,
Kính-Đức,
say mê;
Giải-vây;
địch hăm
bốn bề
Thái-Tông.
Cảo-Khanh,
Quan ải
biên-pḥng;
Già gân
chửi
giặc,
chẳng
ḥng
thiệt
thân.
Xưa nay,
nghĩa-sĩ
trung-thần;
Thời nào
cũng có;
xả thân
cứu
“Nhà”.
(52)
Danh
thơm lưu
Sử… đồn
xa;
Sống già
chết
nhát, xó
nhà mà
thôi.
Các
Ngươi,
vốn đă
một
thời;
Công-hầu
khanh-tướng,
chuyện
đời ngờ,
tin…!?
-------------------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(48)- Đại-Vương Trần-Hưng- Đạo (1228=> 20-08-1300); Ông nổi tiếng
trong
Lịch Sử
với vai
tṛ Tổng
Chỉ Huy
Quân Đội
Đại
Việt. Ba
lần đánh
thắng
quân
Nguyên-Mông
trong
thế kỷ
13; dưới
thời
Hốt-Tất-Liệt.
Chiến
thắng
của Ông
trước
đội quân
Nguyê-Mông
là một
trong
những
chiến
công vĩ
đại của
Lịch Sử
quân sự
Việt-Nam
và thế
giới.
Được coi
là một
trong
những
nhà quân
sự kiệt
xuất
nhất
trong
Lịch Sử.
Tư tưởng
quân sự
của ông
đă được
thể hiện
rơ nét
trong
các luận
thuyết,
tác phẩm
“Binh-Thư
Yếu-Lược”
của
ḿnh.
(Trích
Web
site:
Bách
khoa
toàn thư
mở
Wikipedia)
Bản “Binh-Thư Yếu-Lược” này viết bằng Hán văn, được Sử-Gia
Trần-Trọng-Kim
dịch ra
tiếng
Việt; từ
cuối
trang
139 đến
trang
142;
trong
cuốn
“Việt-Nam
Sử Lược”
quyển I
của Ông.
Phần chữ nghiêng từ trang 172 đến hết trang 178 (Trong Đại Thi
Tập
“DANH SỬ
VIỆT”,
phát
hành
tháng
11-2017
tại
Sydney)…
là “Bản
Phóng
Tác” của
Tác-Giả
với thể
Thơ
Lục-Bát;
viết về
“Binh-Thư
Yếu-Lược”:
“Sách
Quốc
Pḥng”
của
Đại-Vương
Trần-Hưng-Đạo.
(49)- “Kỷ-Tín”: Năm 204 trước Công nguyên, chiến tranh Hán, Sở đi
vào giai
đoạn
khốc-liệt.
Vua Hán
Lưu-Bang
(Hán Đế)
và quần
thần bị
vây khốn
trong
thành
Hoàng-Dương,
không
lối
thoát…
Kỷ-Tín
là một
danh
tướng
trung
thần,
bày mưu
để cứu
Hán-Đế
thoát
Thành
bằng
cách:
Ông tự
nguyện
đóng vai
Hán-Đế
ngự
trong
một
chiếc xe
ngựa màu
vàng có
mái che,
và được
vây
quanh
bởi hơn
2 ngàn
quân
Hán, rồi
cùng với
đoàn
quân
tiến ra
trước
cửa
Thành;
trước sự
bao vây
của mấy
vạn quân
Sở do
Hạng-Vũ
chỉ-huy
(Giống
như
Lê-Lai
cứu
Lê-Lợi…
trong Sử
Việt-Nam;
thời
Hậu-Lê.).
Hạng-Vũ
ra lệnh
quân Sở
phải bắt
sống
Hán-Đế.
Thế
nhưng,
khi quân
Sở đến
gần mới
phát
hiện hơn
2 ngàn
quân Hán
toàn là
đàn bà
và trẻ
con. Khi
Hạng-Vũ
tới
trước
cửa xe
ngựa,
dùng
kiếm để
vén tấm
màn, bắt
sống
Hán-Đế.
Nhưng
thật bất
ngờ;
người
dũng
tướng từ
trong xe
bước ra,
không
phải là
Hán-Đế,
mà là
dũng
tướng
Kỷ-Tín
của nhà
Hán. Ông
nói cho
Hạng-Vũ
biết là
Hán
Vương đă
ra khỏi
thành
Hoàng-Dương
từ lâu
rồi. Kết
cục,
Kỷ-Tín
bị
Hạng-Vũ
bắt và
thiêu
chết.
(50)- “Do-Vu”: Thời Xuân-Thu, Sở Chiêu Vương Hùng-Trần đi lánh
nạn, bị
kẻ cướp
đuổi
theo,
Ông chui
vào bụi
rậm để
trốn.
Bọn cướp
dùng
giáo đâm
vào bụi
rậm để
t́m.
Tướng
Do-Vu
(50) là
một
trung
thần, đă
đưa lưng
ra đỡ
ngọn
giáo cho
Vua. Sau
đó ông
dùng đất
để xóa
sạch các
vết máu
nơi ngọn
giáo.
Nhờ thế
Sở Chiêu
Vương
được
thoát
nạn.
(51)- “Dự-Nhượng”: Là một thích-khách giỏi thời Xuân-Thu Chiến-Quốc.
Ông là
người
Tần, sau
đến sống
và trở
thành
người
Tấn. Ông
kiên tŕ
đến
ám-sát
Triệu-Tử-Dương,
để báo
thù cho
chủ là
Trí-Bá-Dao;
là người
có quyền
lực nhất
của nước
Tấn.
(52)- “Nhà”: Là Quốc-gia.
Nay Ta
nói rơ
thế-t́nh;
Chuyện
đời nhà
Tống,
Nguyên;
t́nh-h́nh
xưa.
Công-Kiên,
(53)
danh
tướng
không
vừa;
Cùng tỳ
tướng
Lập;
(53)
Tống xua
Mông-Khà
(Mông-Kha).
(54)
Điếu-Ngư,
(55)
thành
nhỏ
can-qua;
Quân
Mông
trăm
vạn, thế
mà phải
thua…!
Đến nay,
dân Tống
ơn xưa;
Tôn thờ
danh
Tướng;
ơn Vua
ngàn
đời.
Ngột-Lang,
(56)
Mông
tướng
một
thời;
Cùng tỳ
tướng
Xích,
(56)
đánh tơi
Nam
Triều.”
(57)
“Khiến
vua
Thát-Đát
(Mông-Cổ)
thương
yêu;
Đến nay
măi nhớ;
trăm
điều
tiếng
thơm.
Ta,
Ngươi;
vận-hạn
oán-hờn;
Sứ
Nguyên
hống-hách
lơn-tơn
ngoài
đường.
Rẻ khinh
Đại-Việt
Triều-Cương;
Mượn
danh
Hốt(-Tất)-Liệt,
t́m
phương
cướp
càn.
Dựa lưng
Hốt(-Kha)-Kích,
(58)
Vương-Nam
Vét-vơ
châu
ngọc,
bạc
vàng;
Lụa tơ.
Khác nào
hổ đói
chực-chờ;
Mồi ngon
no thỏa,
cướp vồ
cả kho.
Ta đây,
ngày
tháng
âu-lo;
Quên ăn,
quên
ngủ, tơ
ṿ ruột
gan.
Hằng
ngày,
nước mắt
lan-tràn;
Những
mong cắt
tiết,
moi gan
giặc
thù.
Thân này
khắc-khoải,
ưu-tư;
Bọc thây
da ngựa,
diệt thù
Mông-Nguyên.
Các
Khanh
cũng giữ
binh
quyền;
Cùng Ta
giết
giặc, lo
yên Nước
Nhà.
Công lao
Khanh
Tướng
xông-pha;
Thiếu
cơm,
thiếu
áo; có
Ta chu
toàn.”
-----------------------------------------------
GHI CHÚ:
(53)- “Công-Kiên”: (Có Sách ghi là Vương-Công-Kiên.): Là một
danhTướng
của nhà
Tống,
cùng với
tỳ tướng
Nguyễn-Văn-Lập
(có Sách
viết là
Vương-Lập),
trấn giữ
thành
Điếu-Ngư;
có diện
tích
2,5km
vuông.
Đă đánh
bại vua
Mông-Cổ
là
Mông-Kha
(anh của
Hốt-Tất-Liệt)
với vài
chục vạn
quân;
kéo dài
suốt 36
năm(1243-1279)
vẫn
không
thắng
được.
(54)- “Mông-Khà(Mông-Kha).”: Là Anh của Hốt Tất Liệt; là Vua
Mông-Cổ;
sau thời
Thành-Cát
Tư-Hăn.
(55)- “Điếu-Ngư”: Thành Điếu-Ngư có diện tích khoảng 2,5km vuông,
nằm ở
phía Nam
sông
Gia-Lăng,
quận
Hợp-Xuyên(Trùng-Khánh),
tỉnh
Tứ-Xuyên,
Trung-Quốc.
(56)- “Đường-Ngột-Ngại”: (Ngột-Lang) và tỳ tướng Xích-Tu-Tư;(56)
là hai
danh
tướng
nhà
Mông-Nguyên,
đă đánh
thắng
quân
nước
Nam-Chiếu
(tiền
thân
nước
Đại-Lư
sau này)
chỉ
trong
vài
tuần;khiến
vua
Mông-Nguyên
phải nể
phục.
(57)-“ Nam Triều: Nước Nam-Chiếu.”: Tiền thân của nước Đại-Lư sau
này.
(58)- “Hốt-Kha-Kích”: Là con trai Hốt-Tất-Liệt, được vua cha
phong
cho làm
Vương xứ
Vân-Nam.
(Tức
nước
Nam-Chiếu
và là
Đại-Lư
về
sau.)
“Quân-hàm
c̣n
thấp, Ta
ban;
Quan cao
lộc hậu;
rỡ-ràng
thanh-danh.
Đường
trường,
cấp ngựa
phi
nhanh;
Nếu đi
đường
thủy; Ta
dành
thuyền
xuôi.
Lúc vui,
nhàn-hạ;
cùng
cười…
Lâm nàn,
sống
chết
ngoai-nguôi
nỗi
buồn…!
Cách Ta
đối xử;
vương
tôn…
Khác chi
Đường-Ngại;
măi đồn
Vương-Kiên.
(53 )
đă nói ở
trên.
Nếu Vua
gặp phải
nhục
phiền;
Ngươi
Thần,
không
đoái;
nỗi niềm
ai
hay!?”
“Giả như
“Quốc-Sĩ”
(59)
bị giày…
Ngươi
không
biết
nhục,
kiếp này
sống
chi…?
Thân
ngươi,
làm
Tướng
chỉ-huy;
Phải đi
hầu
giặc; có
ǵ là
vinh!?
Khi nghe
nhạc
trổi
xập-x́nh…
Đón chào
“ngụy
Sứ”;
phận
ḿnh
tráo-trơ!?
Hay khi
vui-thú
vu-vơ;
Chọi gà,
cờ bạc,
lăng-lờ
việc
binh.
Hoặc v́,
mưu sự
cho
ḿnh;
Chỉ lo
nhà,
ruộng,
riêng
t́nh vợ
con.”
“Không
màng đến
chuyện
“Nước
Non”;
Nhà tan,
Nước
mất,
Ngươi
c̣n cái
chi…?
Cũng như
ham
rượu;
lâm-ly…
Say-mê
“đào
hát”,
ngựa phi
săn mồi.
Có tṛn
bổn-phận
Vua,
Tôi;
Giặc
Mông-Thát
(60)
tới;
xứng đời
cầm
quân!?
Nếu như
Nguyên-Tặc
rần-rần;
Xua quân
tràn
tới…
Quân,
Thần ra
sao!?
Cựa gà,
có thủng
áo bào;
Rượu
ngon,“đào
hát”… có
xao-xuyến
thù!?”
-------------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(59)- “Quốc-Sĩ”: Sĩ-diện và Danh-dự Quốc-Gia.
(60)- “Mông-Thát”: Là giặc Mông-Cổ.
“Bấy giờ
chẳng
thẹn lắm
ru;
Vua,
tôi… bị
bắt nhốt
tù; c̣n
chi…?
Nhà tan,
Nước
mất;
ai-bi…
Hiền
thê,
Hoàng-hậu;
c̣n ǵ
để
vui…!?
Nhục, Ta
phải
gánh
ngậm-ngùi;
Nhục
Ngươi
cũng
vậy;
rúc-chui
muôn
đời!
Bấy giờ
Ngươi
c̣n
thảnh-thơi;
Say-mê
tiếng
hát,
ngọt hơi
rượu
nồng!?
Chắc sự
vui
thỏa… là
không;
Chỉ c̣n
khổ-nhục,
xiềng
gông mạt
đời!”
“Nay Ta
bảo thật
các
Ngươi…”;
Phải nên
cẩn-trọng;
mười
mươi
quân-t́nh.
Hàng
ngày
nhủ-bảo
quân
binh;
Luyện tu
cung
kiếm,
thể h́nh
xứng
cân.
Khoẻ như
Hậu-Nghệ,
(61)
cung
thần;
Bàng-Mông
(61)
cũng
thế,
rành
phần đao
cung.
Sao cho
quân,
Tướng…
Việt
hùng;
Phanh
thây Hốt
(Tất)-Liệt,
tàn-hung
cướp
càn.
Lột da
Hốt
(Kha)-Kích,
vương
Nam;
Tiêu-diệt
giặc
cướp
hung-tàn
Mông-Nguyên.”
“Xứng
danh
Đại-Việt
khắp
miền…
“Sử
Vàng”
muôn
thuở;
Tổ-Tiên
thỏa
ḷng!
Rỡ-ràng
Tông-Miếu…
Ta mong;
Rạng
danh,
thơm
tiếng;
Giống
Ḍng các
Ngươi!
Bổng-lộc,
Ngươi
hưởng
thảnh-thơi;
Vợ con
đầm-ấm,
no đời
trăm
năm.
Nay Ta
quyết-chí
nhủ-răn;
Các
Ngươi
“Binh-Pháp”;
tiếng-tăm
nhiều
đời.
Sĩ hùng,
danh
tướng
khắp
nơi…
“Binh-Thư
Yếu-Lược”;
cơ-trời
ngàn
năm!”
------------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(61)- Hậu-Nghệ
với tỳ
tướng
Bàng-Mông;
là hai
danh
tướng
của nước
Hữu-Cùng,
rất giỏi
về thuật
bắn
cung. Về
sau
Hậu-Nghệ
làm vua
Tiểu
Vương
Quốc
Hữu-Cùng,
lệ thuộc
Nhà Hạ.
Nhưng
sau đó
lại cướp
Ngôi và
làm vua
Nhà Hạ.
“Nếu
như,
Ngươi
biết
chuyên-chăm;
Luyện tu
“Sách-Lược”,
để tâm
noi t́m.
Sẽ là
Thần-Tử
đáng
tin;
Ta luôn
trông-cậy;
vững tin
thắng
thù!
Nhược
bằng
lười-biếng,
ngao-du…
Bỏ-bê,
khinh
“Sách”:
Kẻ thù
của Ta!
Ta,
Ngươi;
không
thể
chung
nhà;
Chung
trời,
chung
đất;
cùng Ta
một
thuyền.
Bởi Ta
với bọn
giặc
Nguyên;
Kẻ thù
truyền
kiếp; có
yên được
nào!?”
“Sao
Ngươi
không
thể
ngước
cao;
Báo thù
Mông-Cổ,
tràn vào
“Nước
Nam”?
Lại
không
dạy-dỗ
binh-đoàn;
Thân là
Tướng-lănh;
sao đang
phản
thần,
Rồi quay
ngọn
giáo vào
dân;
Chạy
theo
giặc
cướp;
kiếm
phần lợi
danh!?
Xưa kia
“B́nh-Lỗ”
(62)
thắng
nhanh;
Khiến
cho quân
Tống
tanh-banh,
hăi-hùng.
Cũng v́
binh,
Tướng
tín-trung;
Cùng
Hoàn
(62)
vinh
thắng,
danh
lừng
muôn
năm!”
“Nay Ta
cảm thấy
khó-khăn;
Các
Ngươi
thối-chí;
không
căm diệt
thù.
Đời Ta,
chẳng hổ
lắm ru;
Các
Ngươi
cũng
vậy;
ngàn thu
tiếng
đời!?
Bởi vậy
Ta tỏ
các
Ngươi;
Ḷng Ta
như thế;
mười-mươi
rơ-ràng.
Rồi hoàn
“Binh-Lược”,
(63)
Ta ban;
Các
Ngươi
hiểu rỏ;
sẵn-sàng
diệt
Nguyên!
Mọi
người
chứng tỏ
lời
nguyền;
Khắc
tay:
“Sát
Đát!”;
(64)
diệt
Nguyên
hung-tàn!!!”
---------------------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(62)- “B́nh-Lỗ”:
Là một
Thành cổ
được
Tướng
Lê-Hoàn
(tức vua
Lê-
Đại-Hành)
(62) xây
dựng
thời
kháng
chiến
chống
quân
Tống lần
thứ nhất
vào năm
981.
Hưng-Đạo-Vương
(Trần-Quốc-Tuấn);
đă đánh
giá rất
cao về
chiến
thắng
này và
đă đưa
vào
“Binh-Thư
Yếu-Lược”;
để răn
dạy
quân,
Tướng
nhà Trần
noi
theo…
hầu lên
tinh-thần
để diệt
giặc
Mông-Nguyên.
(63)- “Rồi hoàn
“Binh-Lược”:
Trần-Hưng-Đạo;
Soạn
hoàn-thành
“Binh-Thư
Yếu-Lược
Quốc
Pḥng”.
(64)- “Khắc tay
Sát-Đát
(hay
Sát-Thát)”:
Khắc vào
cánh tay
hai chữ:
Thề Giết
Mông-Cổ.
Toàn
quân
nhận
lệnh
(Hưng)-Đạo
(65)
ban;
Tướng,
binh
Đại-Việt,
sẵn-sàng
kháng
Mông.
Mọi
người
thề
quyết
một
ḷng:
Quyết-tâm
“Sát-Thát
(hay
Đát)”;
(64)
Thăng-Long
giữ-ǵn.
Thoát-Hoan,
khi nhận
được
tin;
Kéo quân
qua ải;
địa-h́nh
Lạng-Sơn.
Tấn-công
Vạn-Kiếp…
Sóng
cồn;
Hưng(Đạo)-Vương
yếu thế,
lực dồn
lui
binh.
Thoát-Hoan,
làm chủ
t́nh-h́nh;
Kéo qua
Kinh-Bắc,
cho binh
cướp
càn.
Vơ-Ninh,
Lâm,
Ngạn;
(66)
hoang
tàn;
Bởi bầy
giặc
cướp
hung-tàn
Nguyên-Mông.
Thoát-Hoan,
Tướng
cướp qúa
ngông;
Cướp
xong,
chúng
tiến về
Đông-Bộ-Đầu.
Hưng(Đạo)-Vương,
thâm ư
mưu sâu;
Lui quân
Nam
ngạn,
(67)
ngơ-hầu
dưỡng
binh.
Nhằm khi
xoay-chuyển
t́nh-h́nh;
Điều
quân;
kháng-cự
quân
binh
giặc
Tàu.
Thoát-Hoan,
đóng
trại đă
lâu;
Bổng
dưng
nhác
thấy,
lắm đầu
Việt-binh.
Lô-nhô
thấp-thoáng
bóng-h́nh;
Luyện
quân
trong
chốn
trại
binh
Hồng-Hà.
(67)
Hoan
dùng
đại-bác
bắn qua;
Quân Nam
rút
chạy,
vườn nhà
trống
không.
Quân
Nguyên
tiến đến
Thăng-Long;
Vào
Thành,
chỉ thấy
trống
không
Cung-Đ́nh.
V́ chưng
Đại-Việt
lui
binh;
(68)
Theo
sông
Thiên-Mạc;
về kinh
Thiên-Trường.
(68)
Triều-Đ́nh
ra lại
Hải-Dương.
(68)
Sai
Trần-Quang-Khải,
chận
đường
Toa-Đô.
--------------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(65)-
“Đạo”:
Là Danh
Tướng
Trần-Hưng-Đạo.
(66)-
Sau khi
chiếm
được
Vạn-Kiếp,
quân
Mông bắt
được một
số
tù-binh
Đại-Việt;
thấy
trên
cánh tay
người
nào cũng
khắc
chữ:
“Sát-Đát”(hay
Sát-Thát
theo
Việt Sử
Toàn
Thư),
chúng
căm giận
và giết
sạch.
Sau đó,
Thoát-Hoan
cho quân
dồn qua
Kinh-Bắc,
và mặc
sức cho
quân
cướp phá
các vùng
Vơ-Ninh,
Gia-Lâm
và
Đông-Ngạn.
Cướp
xong,
chúng
tiến về
đóng
quân ở
bến
Đông-Bộ-Đầu.
(67)-
“Nam-Ngạn
Hồng-Hà”:
Là vị
trí gần
Thành
Thăng-Long;
Là nơi
Trần-Hưng-Đạo
cho quân
lui về
đóng ở
đây để
chỉnh-đốn
lại
lực-lượng,
hầu có
thể giữ
Thành
Thăng-Long
và chờ
thời
thuận-tiện
để phản
công
chống
lại quân
Nguyên.
Nhưng
khi
Thoát-Hoan
phát
giác sự
xuất
hiện
quân
Đại-Việt
ớ đó;
liền
dùng
đại-bác
bắn
qua.
(68)-
Trước
t́nh-h́nh
đó; Hưng
Đạo-Vương
liền dẫn
Vua
Nhân-Tông,
Thái
Thượng
Hoàng
và
Triều-Đ́nh
cùng
Quân
Đại-Việt;
rút lui
về phía
Nam, dọc
theo
sông
Thiên-Mạc
để về
kinh đô
thứ hai
là
Thiên-Trường
(68) ở
Nam-Định;
bỏ lại
Thăng-Long
với vườn
không
nhà
trống.
Nhưng
khi hay
tin
Toa-Đô
từ
Chiêm-Thành
(Hà-Tĩnh)
tiến ra
Nghệ-An,
để phối
hợp cùng
với
Ô-Mă-Nhi,
đánh từ
trong
đánh ra…
Hưng-Đạo-Vương
đă đề
nghị với
Vua
Nhân-Tông:
Sai
Tướng
Trần-Quang-Khải,
đem quân
vào
Nghệ-An,
để chận
đường
tiến
quân của
Toa-Đô.
Đồng
thời sai
Tướng
Trần-B́nh
Trọng ở
lại
Thiên-Trường
chận
đường
truy
đuổi của
quân
Mông-Nguyên.
C̣n
Hưng-Đạo
đưa
Thái-Thượng-Hoàng
và vua
Nhân-Tông
cùng
Triều-Đ́nh
và đại
quân ra
lại
Hải-Dương
(69) để
theo dơi
t́nh
h́nh
chiến
sự.
Nghệ-An:
Binh,
Tướng
xô-bồ;
(70)
Kiện-Trần,
Lê-Tắc
(70)
hàng Đô;
giặc
Tàu.
Trần-Quang
(Khải)
yếu thế
lui mau;
V́ chưng
Kiện,
Tắc hàng
Tàu;
theo
Mông.
Không
cùng
chung
sức một
ḷng;
Trần-Quang
(Khải)
v́ thế
tránh
Mông…
Quân
ḿnh.
Để chờ
theo dơi
t́nh-h́nh…
Báo tin
Vua
biết,
chiến
t́nh
Nghệ-An.
Được tin
Trần-Kiện
quy
hàng;
(71)
Toa-Đô
đưa Kiện
về hàng
Yên-kinh.
Hưng
(Đạo)-Vương
biết rơ
t́nh-h́nh;
Sai quân
bắt “lũ
tội
t́nh”
(72)
phản
Vua.
Lạng-Sơn:
Kiện,
Tắc bị
lùa;
Gặp ngay
Lộc,
Lĩnh;
Nguyên
thua
chạy
dài.
Trần-Kiện
bị trúng
tên bay;
Chết
ngay tại
chỗ; xác
thây Tắc
vùi.
Về phần
Lê-Tắc
rúc
chui;
Chôn
xong xác
Kiện;
tháo lui
về Tàu.
Ghi lại
trang Sử
ngàn
sau:
“An-Nam
Chí-Lược”,
(73)
chuyện
Tàu,
chuyện
Ta.
Sách
này,
(73)
chỉ ở
Nhật,
Hoa;
Nước ta
không có
“Sử
Nhà”;
(73)
Tắc ghi…
Mai sau
hậu-duệ
muốn
truy;
Sang
Tàu,
sang
Nhật;
lục truy
Sử
tường.
Trần(B́nh)-Trọng
(74)
trấn giữ
Thiên-Trường.
Chận
Nguyên
truy
đuổi;
cản
đường
tiến
công.
Đà-Mạc,
(75)
Nguyên
giặc qúa
đông;
Trần-B́nh(Trọng)
bị bắt;
nhưng
không
quy
hàng.
Quân
Nguyên
giao đến
Thoát-Hoan;
Thoát-Hoan
dùng kế
dụ hàng;
(76)
theo
Mông.
----------------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(70)- Khi Thượng-Tướng Trần-Quang-Khải đưa quân vào đến Nghệ-An,
Ông chia
quân ra
để trấn
giữ.
Nhưng
thấy
t́nh
h́nh
chiến sự
ở đây
thật
hỗn-loạn.
V́ viên
Tướng
trấn thủ
Nghệ-An
là
Trần-Kiện
(70)
cùng
viên
quan phụ
tá là
Lê-Tắc
(70) và
gia
đ́nh;
cùng với
binh
lính
dưới
quyền
đều đă
ra đầu
hàng
Toa-Đô.
Không
hợp lực
với Ông
để chống
lại quân
Mông-Nguyên.V́
thế, để
bảo toàn
lực-lượng,
Tướng
Trần-Quang-Khải
đă cho
lui
binh, và
theo dơi
t́nh-h́nh
chiến
sự. Đồng
thời báo
cho vua
Nhân-Tông
và
Thống-soái
Trần-Hưng-Đạo
biết
t́nh-h́nh
chiến sự
ở
Nghệ-An.
(71)- Khi Vua Nhân-Tông và Trần-Hưng-Đạo hay tin Trần-Kiện và
Lê-Tắc
đă ra
đầu
hàng. Và
Toa-Đô
đang cho
người
đưa
Trần-Kiện
và
Lê-Tắc
về
Yên-Kinh
(Bắc-Kinh).
Trần-Hưng-Đạo
liền sai
một vị
Tướng
đem quân
đi đường
tắt đuổi
theo
Trần-Kiện,
Lê-Tắc
và đồng
bọn.
(72)- Khi tới địa hạt Lạng-Sơn, Trần-Kiện và Lê-Tắc bị hai người
thổ địa
ở đây là
Nguyễn-Thế-Lộc
và
Nguyễn-Lĩnh,
đem quân
ra vây
đánh.
Cùng lúc
quân
truy
đuổi
cũng đă
đến nơi.
Quân
Nguyên
thấy vậy
đă bỏ
chạy… và
Trần-Kiên
bị trúng
tên,
chết tại
chỗ. Xác
Kiện
được
Lê-Tắc
và
người
nhà cướp
được,
đưa đến
g̣
Ôn-Khâu
(Lạng-Sơn)
mai
táng.
Sau đó
Lê-Tắc
và đồng
bọn trốn
sang
Tàu. Về
sau
Lê-Tắc
có ghi
lại bộ
Sử:
“An-Nam
Chí-Lược”.
(73)- Bộ Sử “An-Nam Chí-Lược” này; hiện c̣n có ở bên Tàu và
Nhật-Bản.
Việt-Nam
không
có. Nếu
Ai muốn
biết rơ
vể
giai-đoạn
Lịch-Sử
này do
Tắc ghi…
để đối
chiếu;
th́ hăy
sang Tàu
hay Nhật
mà
t́m.
(74)- Bảo-Nghĩa vương Trần-B́nh-Trọng được lệnh Vua ở lại trấn
giữ
Thiên-Trường.
Hầu cản
đường
quân
Nguyên
tràn
tới.
Nhưng
khi Ông
thấy
Quân
Nguyên
kéo tới
băi
Đà-Mạc
hay
Tha-Mạc),
(75)
liền đem
quân ra
chận.
Nhưng v́
quân
Nguyên
qúa
đông,
nên Ông
đă bị
vây bắt,
nhưng
quyết
không
quy
hàng, và
quân
Nguyên
đă
giải-giao
Ông cho
Thoát-Hoan.
(76)- Thoát-Hoan thấy Trần-B́nh-Trọng là một Tướng tài, khoẻ
mạnh;
muốn dụ
Ông hàng
quân
Nguyên;
đồng
thời
hỏi:
“Ông có
muốn Ta
phong
Ông làm
Vương
đất Bắc
không?”
Trần-B́nh-Trọng
đă
khẳng-khái
trả lời:
“Ta thà
làm qủy
Nước Nam
an-b́nh,
c̣n hơn
làm
Vương
Đất Bắc
của các
ngươi”.
Thoát-Hoan
nghe nói
thế,
liền sai
quân đem
Ông đi
chém.
Rằng:
“Ông có
muốn Tôi
phong;
Làm
Vương
đất Bắc,
giống
ḍng
phồn-vinh!?”
“Ta thà
làm qủy
Nam
b́nh;
C̣n hơn
Vương
Bắc;
Yến-Kinh
các
người…!”
Thoát-Hoa
nghe nói
hổ
ngươi;
Sai
người
đem
chém;
chết
tươi
trung
Thần.
Nghe tin
Trần
(B́nh)-Trọng
xả thân;
(77)
Hy-sinh
v́ Nước;
báo ân
Lạc-Hồng.
Thượng-Hoàng,
Hưng-Đạo,
Nhân-Tông;
Tiếc
thương
dũng
Tướng,
“Giống-Ḍng
Trần-Gia”.
Quân
Nguyên
áp-đảo
quân ta;
T́nh-h́nh
nguy-ngập;
khó mà
chống
đương.
Hưng(Đạo)-Vương
nghĩ kế
t́m
đường;
(78)
Theo
sông
Tam-Chỉ,
(78)
đến
phường
Quảng-Yên.
Để cho
kế-hoạch
vẹn
tuyền;
Hưng sai
chuẩn bị
một
thuyền
trống
không.
Thuyền
này
giông-giống
Thuyền
Rồng;
(79)
Đưa
thuyền
ra cửa;
bềnh-bồng
Ngọc-Sơn.
Sai
người
loan-báo
tin đồn;
(79)
Rằng Vua
đă đến
Ngọc-Sơn;
bôn-đào.
(79)
Lư-Hằng,
Nguyên
tướng
mưu cao;
Cùng tên
Khoan-Triệt;
nghi
phao tin
đồn…
Nhân-Tông
không
đến
Ngọc-Sơn;
Nhưng
sông
Tam-Chỉ,
lực dồn
đuổi
theo.
Hưng(Đạo)-Vương
thấy sự
hiểm-nghèo.
(80)
Rước Vua
lên bộ;
men theo
ven
đường.
Đến làng
Thủy-Chú
tạm
nương;
Cùng Vua
bàn-thảo;
t́m
đường
xuống
sông.
Dùng
thuyền,
không
phải
Thuyền
Rồng;
Thoát
sao cho
lẹ; ra
sông
Nam-Triều.
(80)
------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(77)-
Sau khi
Hưng-Đạo-Vương
dẫn Vua
Nhân-Tông
và
Triều-Đ́nh
từ
Thiên-Trường,
Nam-Định
ra
Hải-Dương.
T́nh
h́nh
chiến sự
trở nên
căng
thẳng.
Trần-Quang-Khải
được sai
vào
Nghệ-An
chận
đường
tiến của
Toa-Đô
ra Bắc;
để hợp
lực với
Thoát-Hoan
đánh
Đại-Việt…
Quân
Trần-Quang-Khải
v́ yếu
thế phải
rút lui
để bảo
toàn
lực-lượng.
Phần
Trần-B́nh-Trọng
được
lệnh ở
lại cố
thủ
Thiên-Trường,
nhưng
khi thấy
quân
Nguyên
tràn tới
băi
Đà-Mạc,
đă đem
quân
chận
đánh.
Nhưng
Ông đă
bị vây
bắt và
bị
Thoát-Hoan
giết v́
không
chịu
hàng
phục.
Khi hay
tin
Trần-B́nh-Trọng
đă
hy-sinh
tử tiết
v́ Nước;
Thái-Thượng-Hoàng,
vua
Nhân-Tông,
Hưng-Đạo-Vương
và
Triều-Đ́nh
đều
thương
tiếc vị
dũng
Tướng
trung
Thần của
“Ḍng
Giống
Trần-Gia”.
(78)-
Trước
t́nh-h́nh
nguy-ngập
như thế,
Hưng-Đạo-Vương
đă nghĩ
cách đưa
Vua
Nhân-Tông
và
Triều-Đ́nh
cùng đại
quân từ
Hải-Dương
ra
Quảng-Yên
bằng
đường
sông
Tam-Chỉ.
(79)-
Đồng
thời
ngụy tạo
Thuyền-Rồng,
sai
người di
chuyển
ra cửa
biển
Ngọc-Sơn,
để đánh
lừa quân
Nguyên.
Nhưng
hai
Tướng
Nguyên
là
Lư-Hằng
và
Khoan-Triệt
cho
người
theo dơi
và biết
rằng
Thuyền
Rồng ra
cửa biển
Ngọc-Sơn
là giả,
nên
chúng đă
đuổi
theo
Vua…
trên
sông
Tam-Chỉ.
(80)-
Trước
t́nh-h́nh
hiểm-nghèo
đó,
Hưng-Đạo-Vương
lại đưa
Vua và
Triều-Đ́nh
lên
đường
bộ, đi
đến làng
Thủy-Chú
tạm ẩn.
Sau đó
lại đưa
Vua
xuống
thuyền,
thoát ra
sông
Nam-Triều
(80) Tức
là sông
Bạch-Đằng(80)
thuộc
Hải-Dương;
rồi vào
Thanh-Hóa
trở lại;
để
củng-cố
lực-lượng,
chờ ngày
tổng
phản-công.
Trở vào
Thanh-Hóa;
mục
tiêu:
Điều
quân
chỉnh-đốn,
tính
điều
phản
công.
Thoát-Hoan,
lực-lượng
qúa
đông;
Bắc-Ninh,
cho tới
Thăng-Long,
Thiên-Trường.
Nơi nào
cũng có
Nguyên
đương;
(81)
Nghệ-An,
Thanh-Hóa;
có
phường
Toa-Đô.
Thêm
Đường-Ngột-Ngải
theo
pḥ;
Hợp cùng
Ô-Mă
(Nhi);
reo-ḥ
đánh ra.
Hưng(Đạo)-Vương
điều
động
quân ta;
Mặc cho
Viên,
Tắc
(82)
đă
ra đầu
hàng.
Phần
Ngài,
vẫn
quyết,
hiên-ngang;
(83)
Lệnh
Trần-Quang-Khải,
chận
đàng
Toa-Đô.
Vượt qua
Ô, Lư,
xô-bồ;
Hoan-Châu,
Châu Ái;
đường
g̣, sông
ngăn.
Toa-Đô,
di-chuyển
khó-khăn;
Mới mong
đến được
lănh
phần
Hải-Dương.
Trần(Nhật)-Duật
(84)
nhận
lệnh cản
đường;
Cùng
Trần-Quốc-Toản,
t́m
phương
diệt
Tàu.
Lại thêm
Nguyễn-Khoái
cùng
nhau;
Vây
quanh
Hàm-Tử,
(84)
diệt
Tàu:
Toa-Đô.
Triệu-Trung,
(84)
tướng
Tống
đánh
pḥ;
Toa-Đô
nghĩ
Tống
giúp cho
quân
Trần.
Quân
Nguyên
hoảng-hốt,
chết
trân;
Toa-Đô
lui
chạy,
dừng
chân
Thiên-Trường.
Hắn t́m
mọi
cách,
mọi
phương;
Sao cho
kết-hợp
với
phường
Thoát-Hoan.
Chiêu(Văn)-Vương,
(85)
thắng
trận
hân-hoan;
Sai
Trần-Quốc-Toản,
(86)
tin
loan
Triều-Đ́nh.
Hưng(Đạo)-Vương,
khi nhận
được
tin;
Tŕnh
lên
Chúa-Thượng,
t́nh-h́nh
chiến
công.
------------------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(81)-
Quân
Mông-Nguyên
được
Thoát-Hoan
bố trí
để bao
vây
Đại-Việt;
từ
Bắc-Ninh,
tới
Thăng-Long
và vào
tới tận
Thiên-Trường
ở
Ninh-B́nh,
Nam-Định.
C̣n từ
Nghệ-An,
Thánh-Hóa
đánh ra
th́ có
Toa-Đô,
Đường-Ngột-Ngải
và
Ô-Mă-Nhi.
(82)-
Trần-Tú-Viên
và
Trần-Ích-Tắc.
Riêng
Trần-Ích-Tắc,
là con
thứ của
vua
Trần-Thái-Tông
và là em
vua
Trần-Thánh-Tông.
Nuôi
mộng
cướp
Ngôi
Trần-Nhân-Tông.
Ngày 15
tháng 3
năm
1285,
Ích Tắc
đem cả
gia đ́nh
theo
hàng
Thoát-Hoan,
với hy
vọng
được lập
làm Vua.
Khi
Thoát-Hoan
và quân
Nguyên
thất bại
chạy về
nước,
Ích Tắc
được đưa
về Trung
Quốc và
được Hốt
Tất
Liệt,
phong
làm An
Nam Quốc
vương và
chờ ngày
đưa trở
về nước.
Hai năm
sau
(1287),
Ích Tắc
lại theo
Thoát
Hoan
sang Đại
Việt lần
thứ
ba.
(83)-
Khi
Trần-Hưng-Đạo
nhận
được tin
Trần-Quang-Khải
cho
biết;
quân
Toa-Đô
và
Ô-Mă-Nhi
từ
Chiêm-Thành
đánh ra
Nghệ-An
đă thất
bại v́
lượng
thực đă
cạn, và
quân
lính đă
mệt mỏi
trên
đường di
chuyển;
qua các
vùng
Ô-Lư
(Thuận-Hóa),
Hoan-Châu
(Nghệ-An),
Ái-Châu
(Thanh-Hóa).
V́ thế,
bọn họ
đă xuống
thuyền
ra Bắc;
hợp cùng
với
Thoát-Hoan
đế đánh
Ta.
Hưng-Đạo-Vương
đă hội ư
với Vua
Nhân-Tông;
sai
Chiêu-Văn-Vương
Trần-Nhật-Duật
làm
Tướng,
Trần-Quốc-Toản
làm Phó
Tướng,
hợp cùng
với
Tướng
Nguyễn-Khoái;
đem 5
vạn quân
ra đón
đường
đánh
Toa-Đô ở
mặt
Hải-Dương.
(84)-
Phần
Chiêu-Văn-Vương
Trần-Nhật-Duật,
được Vua
Nhân-Tông
sai làm
Tướng,
lănh-đạo
5 vạn
quân
Trần,
cùng với
Trần-Quốc-Toản
làm phó
Tướng,
phối hợp
với
Tướng
Nguyễn-Khoái;
ra chận
đường
đánh
Toa-Đô ở
mặt
Hải-Dương.
Đến
tháng Tư
năm
Ất-Dậu
(1285),
Trần-Nhật-Duật
ra đến
bến
Hàm-Tử
(Hưng-Yên)
th́ gặp
chiến
thuyền
của
Toa-Đô.
Ông đă
chia
quân ra
đánh.
Trong
hàng ngũ
của Ông;
có tướng
Triệu-Trung
và quân
binh nhà
Tống về
hàng
phục
trước
kia,
cùng
tham gia
chiến
đấu với
quân
phục nhà
Tống.
Quân
Toa-Đô
nghĩ
rằng,
Nhà Tống
đă khôi
phục
được
nước Tàu
và cho
quân
sang
giúp Nhà
Trần,
nên
hoảng sợ
và tháo
chạy
ngược về
cửa
Thiên-Trường,
t́m
đường
thoát;
đồng
thời để
kết hợp
với
Thoát-Hoan.
(85)-
Chiêu(Văn)-Vương:
Là
Tước-Hiệu
của
Tướng
Trần-Nhật-Duật.
(86)- Sử
ghi
rằng,
khi vua
Nhân-Tông
triệu
tập các
Vương
Hầu và
Tướng
Lănh tại
Hội-Nghị
B́nh-Than;
để bàn
về việc
chống
quân
Mông-Nguyên…
Trần-Quốc-Toản
v́ c̣n
nhỏ; ch́
15-16
tuổi,
không
được vào
pḥng
hội-nghị
để bàn
việc.
Toản căm
tức vô
cùng và
đă bóp
nát trái
cam
trong
ḷng bàn
tay lúc
nào
không
hay. Khi
tan hội
họp, mọi
người
trở vế
chuẩn bị
binh
thuyền
và khí
giới để
đánh
giặc.
Toản
cũng về
chiêu
tập thân
tộc và
các dũng
sĩ, được
hơn ngàn
quân.
Chuẩn bị
binh khí
và may
một lá
cờ lớn
đề sáu
chữ:
“Phá
cường
địch,
báo
Hồng-Ân”…
Rồi kéo
quân đi
đánh
giặc.
Đánh nơi
nào,
thắng
nơi đó
và quân
giặc
phải rút
lui.
Đồng
thời tâu
với
Nhân-Tông:
“Quân Ta
mới
thắng,
chiến-công
vang-lừng.
Quân
Nguyên
chột dạ,
lung-bung…
Nay ta
kết-hợp,
tập-trung
Kinh-Thành.
Đồng
thời
tổng
kích
thật
nhanh;
Triệt
Hoan;
lấy lại
Kinh-Thành
Thăng-Long.”
Vua nghe
tinh ư…
thuận
ḷng;
Lệnh
Trần-Quang-Khải;
Thăng-Long
thu hồi.
(87)
Nhật-Duật,
chặn giữ
khắp
nơi;
Không
cho Đô
tới; tái
hồi
Thoát-Hoan.
Thăng-Long,
khi đó
lan-tràn;
Quân
Nguyên,
do tướng
Thoát-Hoan
cầm đầu.
Đại-binh,
tuần giữ
canh
thâu;
Chiến
thuyền
thời
đậu; bến
cầu
Chương-Dương.
Từ trong
Thanh-Hóa,
đă
lường;
Những
điều
trở-ngại;
bất-thường
chống
đương.
Trần-Quang,
Quốc-Toản
(88)
t́m
phương;
Dùng
thuyền
ra bến
Chương-Dương
ập vào;
Cùng
Phạm-Ngũ-Lăo,
(88)
ào-ào…
Tấn-công
mănh-liệt;
đánh vào
quân
Nguyên.
Tịch
thâu tất
cả tàu
thuyền;
Địch
thua
tháo
chạy;
quân
Nguyên
lên bờ.
Trần-Quang(Khải)
(88)
lợi-dụng
thời-cơ;
Điều
quân
tốc-chiến;
lên bờ
đuổi
theo.
Quân
Nguyên
gặp thế
hiểm-nghèo;
Ào-ào
tháo
chạy;
tranh
leo vào
Thành.
Báo cho
Nguyên
Tướng
trực
canh;
Rằng
quân
Đại-Việt;
đến
Thành
Thăng-Long.
Quân
Nguyên
đồn-trú
bên
trong;
Hay quân
Trần
đến;
xao-ḷng
trốn
nhanh.
------------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(87) Sau
khi nghe
Hưng-Đạo-Vương
tâu
tŕnh;
thừa cơ
thắngtrận.
Quân Ta
nên phát
động
tổng tấn
công
Thoát-Hoan
để lấy
lại
Kinh-Thành
Thăng-Long.
Vua
Nhân-Tông
đă thuận
ư; lệnh
cho
Tướng
Trần-Quang-Khải
điều
quân ra
đánh
Thoát-Hoan
để tái
chiếm
Thăng-Long.
Đồng
thời sai
Trần-Nhật-Duật
chận mọi
nẻo
đường,
không
cho quân
Toa-Đô
kéo lên
để kết
hợp với
Thoát-Hoan.
(88)
Trần-Quang-Khải
và
Trần-Quốc-Toản;
phối hợp
với
Phạm-Ngũ-Lăo;
điều
quân từ
Thanh-Hóa
ra Bắc
bằng
đường
biển,
theo
lệnh vua
Trần-Nhân-Tông.
Đă ập
vào bến
Chương-Dương,
tổng tấn
công các
chiến
thuyền
của
Thoát-Hoan
đậu tại
đây.
QuânNguyên
bị tấn
công bất
ngờ, bị
thua, bỏ
thuyền
chạy lên
bờ và
tiến về
Thành
Thăng-Long
trong
cảnh hổn
loạn.
Khi hay
tin quân
Trần ào
tới,
quân
Nguyên
trong
Thành
hoảng sợ
và một
số đă
chạy
thoát-thân.
Một bầy
kháng-cự
cầm-canh;
Thoát-Hoan
cố-gắng;
trong
Thành
đánh ra.
(89)
Nhưng
gặp
áp-lực
“Quân
Ta”.
Thoát-Hoan
tháo
chạy,
rút ra
Hồng-Hà.
Giữ mặt
Kinh-Bắc(Bắc-Ninh)
xa-xa;
Nhác
trông
Đại-Việt,
hoan-ca
tưng-bừng.
Trần-Quang(Khải)
(90)
phấn-khởi
khao
mừng;
Tướng,
binh vui
thỏa;
lẫy-lừng
chiến-công!
V́ chưng
quân,
Tướng
một
ḷng;
Quyết
tâm lấy
lại;
Thăng-Long
Kinh-Thành.
Trần-Quang
hứng-khởi
“Thơ
danh”;
(90)
Trọn đời
ghi nhớ
công
thành
b́nh-an:
“Chương-Dương
đoạt
giáo
giặc
Hoan.
(91)
Quân thù
Hàm-Tử;
Ta giam
cả bầy.
Thái
b́nh;
quân,
Tướng
hăng
say…
Ngh́n
Thu,
Non-Nước
vui-vầy
b́nh-sinh…!”
Ấy là lẽ
sống;
tâm-t́nh...
Khải sai
người
báo; vui
tin
thắng
Tàu.
(92)
Từ trong
Thanh-Hóa;
Vương,
Hầu;
Ai-ai
cũng
thỏa;
cùng
nhau reo
mừng.
Nhân-Tông
di
chuyển
Triều-Cung;
Phụ-vương
Thái-Thượng(Hoàng)
về vùng
Tràng-An.
(93)
Toa-Đô,
lâm cảnh
gian-nan;
(94)
Thua
trận
Hàm-Tử,
lang-thang
Thiên-Trường.
(94)
Đô,
Hoan;
mỗi
Tướng
một
phương;
Không hề
hay
biết;
chiến
trường
Thăng-Long.
Hoan
thua
thảm-thiết,
long-đong;
Tàn quân
tháo
chạy về
ṿng
Bắc-Ninh
(Kinh-Bắc).
Phần Đô
vẫn cứ
đinh-ninh;
Tiến về
Thiên-Mạc,
(95)
hiệp
binh…
Hoan
chờ.
-----------------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(89)-
Khi
Thoát-Hoan
được tin
quân
Trần do
Trần-Quang-Khải
lănh
đạo, đă
tràn đến
tổng tấn
công tái
chiếm
Thành
Thăng-Long.
Hắn đă
điều
động một
số quân
Nguyên
c̣n lại;
từ trong
Thành
đánh ra.
Nhưng đă
thất
bại.
Thoát-Hoan
cùng với
một số
tàn quân
tháo
chạy ra
bên bờ
sông
Hồng-Hà;
giữ tạm
thời
vùng
Kinh-Bắc
(thuộcBắc-Ninh);
để chờ
quân của
Toa-Đô
và
Ô-Mă-Nhi
từ bến
Hàm-Tử
(Hải-Dương)
đến tiếp
viện.
Nhưng
hắn
không
ngờ rằng
Quân-Toa-Đô
và
Ô-Mă-Nhi
đă bị
Chiêu-Văn-Vương
Trần-Nhật-Duật
với
Trần-Quốc-Toản
và
Nguyễn
Khoái
tiêu
diệt
trước
đó. Đồng
thời
ngăn
chặn;
không
cho quân
c̣n lại
của
Toa-Đô
liên lạc
được với
Thoát-Hoan.
(90)-
Sau khi
tái
chiến
lại
Kinh-Thành
Thăng-Long,
Tướng
Trần-Quang-Khải
đă cho
mở tiệc
khao
quân đại
thắng.
Trong
khi vui
men
chiến
thắng;
Ông đă
ngẫu
hứng
ngâm lên
bốn vần
Thơ
rằng:
“Đoạt
sáo
Chương-Dương-Độ
(*)
Cầm Hồ
Hàm-Tử-Quan
Thái-b́nh
nhi nổ
lực
Vạn cổ
thử
giang
san.”
Bốn câu
trên
được
dịch ra
chữ Nôm
(không
rỏ
Tác-giả)
như sau:
“Chương-Dương
cướp
giáo
giặc
Hàm-Tử
bắt quân
thù
Thái-b́nh
nên gắng
sức
Non Nước
ấy ngh́n
thu.”
(91)- Và
Tác-Giả
xin tạm
dịch bốn
câu Thơ
(*) trên
theo thể
“Lục-Bát”;
chữ
nghiêng
đậm như
ở trên
và dưới
đây:
“Chương-Dương
đoạt
giáo
giặc
Hoan.
(91)
Quân thù
Hàm-Tử;
Ta giam
cả bầy.
Thái
b́nh;
quân,
Tướng
hăng
say…
Ngh́n
Thu,
Non-Nước
vui-vầy
b́nh-sinh…!”
(92)-
Trong
lúc khao
quân
chiến
thắng.
Tướng
Trần-Quang-Khải
đă không
quên sai
người
vào
Thanh-Hoá;
tŕnh
cho Vua
Nhân-Tông
và
Triều-Đ́nh;
nhất là
Tổng-Tư-Lệnh
Trần-Hưng-Đạo
biết
rằng;
quân
Đại-Việt
đă đại
thắng
quân
Nguyên;
Thoát-Hoan
và đă
tái
chiếm
Kinh-Thành
Thăng-Long.
Khiến
Thoát-Hoan
và tàn
quân
phải
chạy
trốn ra
bờ sông
Hồng-Hà
và tạm
dừng
quân tại
Kinh
Bắc(Bắc-Ninh).
(93) Chỉ
trong
ṿng hai
tháng,
Quân
Trần đă
đại
thắng
quân
Nguyên
hai
trận;
tại
Hàm-Tử
và
Chương-Dương,
đồng
thời tái
chiếm
lại
Kinh-Thành
Thăng-Long;
khiến
Toa-Đô
và Thoát
Hoan
cùng
quân
Nguyên
phải
hoảng sợ
tháo
chạy.
Quân sĩ
Đại-Việt
đă lên
tinh-thần,
nức ḷng
trong tư
thế sẵn
sàng
đánh
giặc.
Vua
Nhân-Tông
cũng cảm
thấy yên
ḷng;
nên đă
đưa
Thái-Thượng-Hoàng
Trần-Thánh-Tông
và
Triều-Đ́nh
về
Tràng-An
(Việt Sử
Toàn Thư
ghi:Trường-Yên):
Thuộc
địa phận
Ninh-B́nh.
(94)-
Sau khi
thua
trận
Hàm-Tử,
Toa-Đô
rút tàn
quân về
Thiên-Trường.
Tiếp
theo lại
tiến về
Thiên-Mạc
(95)
bằng
đường
thủy, để
t́m cách
phối hợp
với
Thoát-Hoan;
v́ hắn
nghĩ là
Thoát-Hoan
đang chờ
đâu đó.
Nhưng Đô
đă không
ngờ
rằng;
Thoát-Hoan
đă thất
bại ở
Thăng-Long
và rút
tàn quân
Nguyên
về vùng
Kinh-Bắc
(Bắc-Ninh).
Đến
Thiên-Mạc,
(95) Đô
thấy nơi
nào cũng
có quân
Trần
trấn
giữ;
không
cách nào
tiến
được,
nên hắn
phải đưa
quân lùi
về
Tây-Kết.
Nhưng
không
biết
liên-lạc
với
Thoát-Hoan
bằng
cách
nào…!?
Nhưng
Đô, hắn
đă không
ngờ;
Thoát-Hoan
thất
trận,
ngây-ngơ
nhức
đầu.
Toa-Đô,
trong dạ
buồn
sầu;
Trở về
Tây-Kết,
t́m đâu
bây giờ?
Hưng(Đạo)-Vương
bố-trí
quân-cơ;
(96)
Sau hai
trận
thắng;
bến bờ
Hàm,
Dương.
(97)
Ngài tâu
Chúa-Thượng
Nhân-Vương;
Sai
Trần(Nhật)-Duật,
Khải;
(98)
chận
đường
Đô,
Hoan.
Không
cho bọn
chúng
hợp
“Đoàn”…
Để Ngài
tiến
đánh Đô,
Hoan đôi
đường.
Nhân-Tông
thuận ư
Hưng(Đạo)-Vương;
(99)
Tùy Ngài
nghĩ
cách;
t́m
phương
diệt
Tàu.
Hưng-Vương,
(99)
lệnh
đánh
thật
mau;
Chận
đường
mọi ngă;
Tóm đầu
Toa-Đô.
Đô, Nhi;
(100)
thủy
chiến
không
ngờ,
Bị
Hưng(Đạo)
(99)
đánh
bại, lên
bờ thoát
thân.
Giặc
Nguyên,
rút chạy
rần-rần…
Bị Trần
phục
kích,
tháo-thân
khắp
đàng.
Toa-Đô,
th́ bị
chận
ngang;
Tại một
dẫy núi,
vong
mạng v́
tên.
Ô
(Mă)-Nhi,
(100)
vừa chạy
vừa rên;
Lui vào
Thanh-Hóa;
lén lên
chiếc
thuyền.
Trở về
Trung-Quốc
b́nh
yên;
Bỏ lại
binh,
tướng
Mông-Nguyên
tan
hàng.
Quân
Nguyên,
bị bắt
ba
vàn(vạn).
(101)
Đầu
(Toa)Đô
bị cắt,
Hưng
mang
dâng
Triều;
Nhân-Tông,
tỏ ư
thương
yêu;
Phủ đầu
Đô
tướng,
(102)
nhiễu-điều
áo Vua!
Ư Ngài,
khuyên
nhủ tôi
Vua:
“Phải
trung
với
“chúa”;
được ưa
tin
dùng.”
------------------------------------------------------
GHI
CHÚ:
(96)-
Phần
Hưng-Đạo-Vương,
sau hai
trận đại
thắng
quân
Toa-Đô
tại bến
Hàm-Tử
và quân
của
Thoát-Hoan
tại bến
Hàm-Tử
và
Chương-Dương
(97)
Ngài đă
nghĩ đến
sách-lược
bố-trí
lực-lượng
quân
Trần; để
tổng tấn
công
Quân
Nguyên
của
Toa-Đô
và
Thoát-Hoan.
Nên Ngài
đă đề
nghị Vua
Nhân-Tông
sai
Trần-Nhật-Duật
và
Trần-Quang-Khải
(98)
t́m cách
chận
đường
Toa-Đô
và
Thoát-Hoan;
không
cho bọn
chúng
liên-lạc
được với
nhau. Để
Ngài
tiêu
diệt
Toa-Đô
trước.
Dồn mọi
nổ lực
để bắt
cho được
chủ
Tướng
(Toa-Đô).
Sau đó
tiến
đánh
Thoát-Hoan.
(99)-
Hưng-Đạo-Vương.
(100)-
Toa-Đô
và
Ô-Mă-Nhi.
(101)-
Ba vàn:
Ba vạn
(Việt Sử
Toàn Thư
ghi năm
vạn).
(102)-
Khi
Hưng-Đạo-Vương
sai
người
đem đầu
Toa-Đô
về dâng
cho Vua
Nhân-Tông.
Ngài đă
cảm nhận
tinh
thần
dũng
liệt và
trung
thành
của một
vị Tướng
đối với
Chúa
Thượng
và Đất
Nước.
Nên Ngài
đă lấy
áo ngự
bào của
ḿnh phủ
lên đầu
Toa-Đô
và nói
rằng:
“Làm bầy
tôi,
phải nên
như
người
này!”
“Toa-Đô,
(102)
là kẻ
tín
trung;
Cần được
mai
táng;
anh hùng
xả thân.
Hỡi hàng
Tướng,
sĩ quân
Trần;
Hăy noi
danh
tiết;
sĩ-nhân
người
này…!”
Hưng-Vương,
dạ thỏa
hăng-say;
Khao
quân
chiến
thắng,
tỏ bày
thưởng
công.
Đồng
thời
cương-quyết
một
ḷng;
Xua Hoan
cút
khỏi;
quanh
ṿng
Bắc-Giang.
Ngài sai
(Nguyễn)Khoái,
(P.Ngũ)Lăo;
(103)
chặn
đàng,
Hai bên
Vạn-Kiếp;
sẵn-sàng
tấn-công.
Lại sai
Nghiễn,
Úy:
(104)
con
Ông;
Đem quân
ba vạn;
chận
ṿng
Quảng-Yên.
Không
cho Hoan
trốn tự
nhiên;
T́m
đường
tẩu
thoát;
về miền
Tư-Minh(của
Tàu).
Phần
Hưng(Đạo),
(105)
chuẩn
bị quân
t́nh;
Điều
quân
tiến
đánh;
địa h́nh
Bắc-Giang.
Thoát-Hoan,
thua
chạy
khắp
đàng;
Tụ về
Vạn-Kiếp;
hoang-mang
tinh-thần.
Tại đây:
Khoái,
Lăo
(103)
cầm
chân;
Tủa ra
tới-tấp;
rần-rần
tấn-công.
Thoát-Hoan
thua
chạy
ḷng-ṿng;
Lư-Hằng
bị giết;
(106)
ở trong
trận
này.
Quân
Nguyên,
tháo-chạy
xa bay;
(107)
Thoát-Hoan,
Phàn-Tiếp;
cả bầy
rút lui.
(107)
Lại thêm
A
(Bát)-Xích,
cùng
lùi;
Kéo theo
Lư-Quán,
Hoan
chui
“ống
đồng”.
(107)
Trên
đường
tháo-chạy
long-đong;
Gặp ngay
Nghiễn,
Úy vây
ṿng
đánh
thêm.
Thoát-Hoan
hoảng-hốt,
rỉ-rên
(rên-rỉ);
Cho dù
đă đến;
bên thềm
Tư-Minh.
----------------------------------------------
GHI CHÚ:
(102)- Khi
Hưng-Đạo-Vương
sai
người
đem đầu
Toa-Đô
về dâng
cho Vua
Nhân-Tông.
Ngài đă
cảm nhận
tinh
thần
dũng
liệt và
trung
thành
của một
vị Tướng
đối với
Chúa
Thượng
và Đất
Nước.
Nên Ngài
đă lấy
áo ngự
bào của
ḿnh phủ
lên đầu
Toa-Đô
và nói
rằng:
“Làm bầy
tôi,
phải nên
như
người
này!”
(103)- “Khoái,
Lăo”:
Nguyễn-Khoái
và
Phạm-Ngũ-Lăo.
(104)- “Nghiễn,
Úy”: Tức
là
Hưng-Vơ-Vương-Nghiễn
và
Hưng-Hiếu-Vương-Úy
; là hai
con trai
của
Trần-Hưng-Đạo.
Được
lệnh đem
3 vạn
quân đến
Quảng-Yên
để chận
đường
rút lui
của
Thoát-Hoan
và đồng
bọn; về
châu
Tư-Minh
của
Tàu.
(105)- Phần
Hưng-Đạo-Vương
th́ dẫn
đại quân
tiến
đánh
quân
Nguyên;
do
Thoát-Hoan
lănh
đạo,
đang đồn
trú tại
Bắc-Giang.
Thoát-Hoan
bị thua
và dẫn
đại quân
Nguyên
về
Vạn-Kiếp
trong
cảnh
hổn-loạn
và
hoang-mang
tinh-thần.
Đến
Vạn-Kiếp,
quân
Thoát-Hoan
lại gặp
quân
Trần do
Nguyễn-Khoái
và
Phạm-Ngũ-Lăo
chỉ-huy,
phục
binh và
vây đánh
tới-tấp.
(106)- Quân
Thoát-Hoan
bị tổn
hại
nặng;
mười
phần mất
hết năm.
Thoát-Hoan
t́m
đường
tháo
chạy và
Lư-Hằng
(106) đă
bị giết
trong
trận
Vạn-Kiếp
này.
(107)- Sau khi
Lư-Hằng
bị giết
tại
Vạn-Kiếp,
toàn bộ
quân,
tướng
Mông-Nguyên
đều t́m
đường
tháo
chạy.
Thoát-Hoan,
Phàn-Tiếp,
A-Bát-Xích,
Lư-Quán…
đều t́m
cách rút
lui.
Riêng
Thoát-Hoan
th́ chui
vào “ống
đồng”,
sai
người
cho lên
xe trốn
chạy về
Tàu.
Nhưng
khi tới
gần địa
hạt
Tư-Minh;
th́ bị
hai
Tướng
Vương-Nghiễn
và
Vương-Úy
(con của
Trần-Hưng-Đạo)
phục-kích,
bao vây
tấn-công.
Quân
Trần,
làm chủ
t́nh-h́nh;
Giết
thêm
Lư-Quán;
(108)
“Việt-binh”
triệt
thù.
Hưng(Đạo)-Vương,
Danh-Sử
ngàn
Thu;
(109)
Điều
binh,
đại
thắng
giặc thù
Nguyên-Mông!
Cũng nhờ
“Nghị-Quyết
Diên-Hồng”;
Toàn dân
đoàn-kết,
một ḷng
cùng
Vua.
Đánh cho
“Nguyên-Tặc”
te-tua;
Diệt năm
chục
vạn;
Mông
thua nhớ
đời!
Nhân-Tông,
Triều-Đại
sáng
ngời;
Toàn dân
ghi nhớ
công
Người
ngàn
năm!
Hưng-Vương,
danh
Tướng
tiếng-tăm;
Sau ngày
đại
thắng,
Ông thăm
Triều-Đ́nh.
(110)
Ngài mời
Chúa-Thượng
về Kinh;
Phục-hồi
nền-nếp;
Cung-Đ́nh
Thăng-Long.
Nhân-Tông,
Thái-Thượng(Hoàng),
hài
ḷng;
Trường-An
bỏ lại,
Thăng-Long
tái-hồi.
Trần-Triều,
hoan-hỷ
Vua,
tôi;
Cùng
nhau góp
sức,
phục-hồi
Giang-San!
Xứng
danh,
“Dân-Tộc
Việt-Nam”;
Con
Hồng,
cháu
Lạc;
rỡ-ràng
ngàn
xưa!
Tướng,
Hoan bại
trận,
te-tua;
(111)
Vua Cha
căm-giận;
tính đưa
chém
đầu.
(111)
Quần-Thần,
năn-nỉ
canh
thâu;
Bọn Hoan
thoát
nạn,
buồn-sầu
hổ-ngươi!
Nguyên
thua hai
trận,
nhớ đời;
(112)
Vua
Nguyên
thù-hận;
quyết
bồi lần
ba.
(112)
Ngừng
việc
đánh
Nhật, ở
xa;
Tập-trung
binh-lực;
lấy nhà
Việt-Nam.
Mông-Nguyên,
thổ-phỉ
ngang-tàng;
Ngàn đời
vẫn
thói;
nhở-nham
yêu-tà…!
---------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(108)-
Quân-Nguyên
hoảng-hốt
tháo
chạy.
Riêng
Lư-Quán
bị tên
bắn chết
tại
trận.
C̣n
Thoát-Hoan,
A-Bát-Xích
và
Phàn-Tiếp;
chạy
thoát
được về
Tàu. Sau
khi giết
thêm
được
Lư-Quán,
và bọn
Thoát-Hoan
đă trốn
về Tàu;
Quân của
Đại-Việt
đă toàn
thắng và
hoàn-toàn
làm chủ
t́nh-h́nh.
Tru-diệt
toàn bộ
kẻ thù
giặc
Nguyên.
(109)-
Hưng-Đạo-Vương
Trần-Quốc-Tuấn,
là một
“đại
danh
Tướng”;
với ḷng
can-đảm,
kiên-quyết
và
trung-liệt;
đă điều
quân
Đại-Việt,
đánh bại
50 vạn
quân
Mông-Nguyên.
Tái
chiếm
lại
Kinh-Đô
Thăng-Long
dưới
thời vua
Trần-Nhân-Tông.
Là một
Triều-Đại
sáng
ngời;
với
“Hội-Nghị
Diên-Hồng”:
Toàn
dân,
toàn
quân,
đoàn kết
một ḷng
với Vua,
đánh
đuổi
quân
xâm-lăng;
dưới
quyền
lănh-đạo
tài ba
của Tổng
Tư-Lệnh
Hưng-Đạo-Vương.
Ông xứng
đáng
được ghi
vào Danh
Sử ngàn
Thu của
Việt-Nam;
cùng với
vị Vua
đầy ḷng
nhân-ái;
thương
dân, yêu
Nước
Trần-Nhân-Tông!
(110)-
Sau khi
tái
chiếm
lại
Kinh-Đô
Thăng-Long,
Hưng-Đạo-Vương
đưa quân
về
Tràng-An,
Ninh-B́nh;
để thăm
lại vua
Nhân-Tông,
Thái-Thượng-Hoàng
Thánh-Tông
và
Triều-Đ́nh.
Đồng
thời mời
Vua cùng
với
Thái-Thượng-Hoàng
và
Triều-Đ́nh
trở về
Thăng-Long.
Vua
Nhân-Tông
và
Thái-Thượng-Hoàng
đă rất
hài ḷng
và đồng
ư dời
Kinh
thành
(thứ 2)
Tràng-An
trở về
Kinh-Đô,
để
chấn-chỉnh
lại
Triều-Cương
và
phục-hồi
Giang-San.
Thật
Xứng
danh
“Con
Hồng,
cháu Lạc
của Dân
Tộc
Việt-Nam”.
(111)-
Phần
Thoát-Hoan
và các
Tướng-Lănh
của hắn;
sau khi
bại trận
trở về;
vua Cha
Hốt-Tất-Liệt
rất căm
giận,
tính đem
chém đầu
tất cả.
Nhưng
nhờ các
quần
thần
Triều-Đ́nh
can
gián;
Vua
Nguyên
nguôi
giận và
tha
cho.
(112)-
Sau hai
lần đại
bại
trước
sức
kháng cự
mănh-liệt
của quân
Đại-Việt.
Hốt-Tất-Liệt
rất tức
giận;
định tâm
chuẩn-bị
quân-t́nh
đế sang
đánh
chiếm
Đại-Việt
lần thứ
ba để
báo thù.
Nên hắn
đă tạm
đ́nh chỉ
việc
đánh
chiếm
Nhật-Bản.
Đồng
thời,
Hắn cho
tuyển
thêm
quân
lính,
sắm thêm
giáo
gươm,
chiến mă
và đóng
thêm 300
chiến
thuyền;
tính
sang
đánh
chiếm
Đại-Việt
ngay,
chẳng
khác nào
bọn
thổ-phỉ
ăn cướp
như yêu
tà.
Hoài
tâm,
tính
chiếm
Nước Ta;
Tuyển
thêm
người,
ngựa,
đóng ba
trăm
thuyền.
Hồ-Nam;
Kha
tướng
(113)
nhủ
khuyên:
“Nguyên-Mông
vừa bại,
dưỡng
yên tạm
thời.
Để cho
quân,
tướng
nghỉ-ngơi;
Khi nao
hồi sức;
liệu
thời
xuất
chinh.”
(113)
Vua
Nguyên
nghe
nói…
lặng im;
Tạm dừng
tốc-chiến,
xua binh
báo thù.
C̣n
Trần-Ích-Tắc
(114)
dại ngu;
Theo
Hoan
phản
Chúa,
như tù
nhục
thân!
Hắn là
hoàng-tộc
nhà
Trần;
Và là
thúc-phụ,
Vua
Trần-Nhân-Tông.
Tắc v́,
bản tính
qúa
ngông;
Muốn
giành
“Ngôi
Báu”
Nhân-Tông
đương
thời.
Theo
Hoan,
tưởng
được
“Cơ-Ngơi”;
Nào ngờ
thất-bại,
cuộc đời
như
trâu!
Vua
Nguyên,
đưa đến
Ngạc-Châu;
Xa mù
Hồ-Bắc,
gục đầu
lệ nô!
Chờ thời
cướp lại
“Cơ Đồ”;
Do
Nguyên
hứa
giúp,
thân nô
tội-t́nh!
Nhân-Tông,
theo-dơi
biết
tin;
(115)
Mông-Nguyên
sửa-soạn
xua binh
đánh
ḿnh.
Ngài
liền
tham-khảo
Triều-Đ́nh;
Hỏi
Trần-Hưng-Đạo:
“Chiến-t́nh
tính
sao?”
(116)
“Quân
Trần,
đối-phó
cách
nào;
V́ chưng
Nguyên
địch,
lớn-lao
hơn
nhiều!?”
Hưng-Vương,
khiêm-tốn
không
kiêu:
(116)
“Bẩm tâu
Chúa-Thượng:
Giặc
nhiều
không
sao.”
“Năm
qua,
Nguyên
tặc
ào-ào;
Ùa sang
năm
chục(vạn),
chúng
nào
thắng
ta…!?”
-------------------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(113)-
Nhưng v́
có một
tên
tướng
Nguyên ở
Hồ-Nam
là
Tuyến-Kha
(113)
can
gián,
khuyên
Hốt-Tất-Liệt
hăy
b́nh-tĩnh;
chờ cho
Thoát-Hoan
và các
Tướng-Lănh
và
binh-sĩ
vừa bại
trận
,dưỡng
sức ít
lâu; khi
hồi-phục
sức khoẻ
và
tinh-thần…
hăy xuất
chinh.
(114)-
Trần-Ích-Tắc
là con
thứ vua
Trần-Thái-Tông.
Em vua
Trần-Thánh-Tông
và là
chú vua
Trần-Nhân-Tông.
Trước
khi quân
Nguyên
do
Toa-Đô
chỉ-huy
từ trong
Chiêm-Thành
kéo ra
đánh
Nghệ-An.
Trần-Ích-Tắc
và
Trần-Tú-Viên
đă phản
lại vua
Trần-Nhân-Tông
và
Triều-Đ́nh;
ra đầu
hàng
Thoát-Hoan.
Khi đó
chỉ có
Trần-Hưng-Đạo
phụng
xa-giá,
lẫn
tránh
địch;
đồng
thời
điều
toàn
quân
phản
công
địch…
Khiến
Thoát-Hoan
đại bại
phải
chui vào
ống đồng
để trốn
về Tàu.
Ích-Tắc
cũng
chạy
theo.
Sau được
vua
Nguyên
cho vể ở
Ngạc-Châu,
một tỉnh
lỵ nhỏ
bé thuộc
Tỉnh
Hồ-Bắc
khi đó.
Mục đích
lợi dụng
thời cơ
để được
bọn giặc
Mông-Nguyên
tôn lên
làm Vua;
rồi dẫn
về Nước
Việt sau
này.
Nhưng ư
đồ của
Tắc và
bọn giặc
Nguyên
đă không
thực-hiện
được.
(115)-
Khi Vua
Nhân-Tông
nhận
được tin
t́nh
báo: Sau
hai lần
đại bại
(Lần thứ
nhất vào
năm
Đinh-Tỵ
(1257),
tại
Thăng-Long,
Đại-Bộ-Đầu,
Quy-Hỏa…
phải
trốn
thoát về
Vân-Nam.
Lần thứ
haị; vào
năm
Ất-Dậu(1285);
Thoát-Hoan
bị
Trần-Quang-Khải
đánh bật
khỏi
Thăng-Long,
phải
trốn về
Bắc-Giang.
C̣n
Toa-Độ
bại trận
tại
Tây-Kết
và bị
tên bắn
chết.
Sau đó,
Thoát-Hoan
lại bị
Hưng-Đạo-Vương
tiến
đánh bật
khỏi
Bắc-Giang,
thua
chạy về
Vạn-Kiếp
và bị
quân của
hai
Tướng
Nguyễn-Khoái
và
Phạm-Ngũ-Lăo
phục
binh
đánh bại
tại
Vạn-Kiếp,
Lư-Hằng
bị giết.
c̣n
Thoát-Hoan,
A-Bát-Xích,
Phàn-Tiếp
và
Lư-Quán,
tháo
chạy về
Tàu.
Nhưng
khi về
gần đến
châu
Tư-Minh
lại bị
hai con
của
Trần-Hưng-Đạo
là
Vương-Nghiễn
và
Vương-Úy;
chận
đường
đánh cho
tơi tả,
Lư-Quán
bị giết,
c̣n
Thoát-Hoan,
A-Bát-Xích,
Phàn
Tiếp
trốn
thoát về
Tàu.
Bởi thế,
vua
Nguyên
là
Hốt-Tất-Liệt
rất căm
giận.
Hắn đă
cho
tuyển
dụng
thêm
quân,
sắm thêm
chiến mă
và gươm
giáo;
đồng
thời cho
đóng
thêm 300
chiến
thuyền,
t́m cách
báo thù
Đại-Việt
lần thứ
ba.
(116)-
Khi nghe
được như
vậy, vua
Nhân-Tông
cảm thấy
lo ngại
trước
đại quân
của Nhà
Nguyên.
Nên Ngài
đă
tham-khảo
ư kiến
Triều-Đ́nh;
đặc biệt
Ngài cho
mời
Trần-Hưng-Đạo
đến để
hỏi ư
kiến
xem: “
Phải
dùng kế
ǵ để
chống
lại được
quân
Nguyên?”
Và
Trần-Hưng-Đạo
đă
khiêm-tốn
(116)
trả lời:
“Bẩm tâu
Chúa-Thượng:
Giặc
nhiều
không
sao.”
“Năm
qua,
Nguyên
tặc
ào-ào;
Ùa sang
năm
chục(vạn),
chúng
nào
thắng
ta…!?”
“Chỉ v́,
“Xă-Tắc
Sơn-Hà”;
Tổ-Tiên
réo-gọi;
quân ta
hết
t́nh.
Không sợ
nguy-hiểm
đao,
binh;
Sẵn-sàng
chiến-đấu;
dốc t́nh
diệt
Nguyên.
Năm rồi,
(1285)
giết
giữa
trận-tiền;
Toa-Đô,
Lư-Quán,
thêm tên
Lư-Hằng.
Nghĩ
rằng;
chúng
chẳng
c̣n
hăng;
Dốc tâm
chiến
đấu, như
năm vừa
rồi.
Bẩm
Ngài,
theo ư
Thần
tôi;
Quân
Trần sẽ
thắng,
phục hồi
“Danh
Nam…!”
Nhân-Tông,
nghe tỏ
mọi
đàng;
Lệnh
cho
Hưng-Đạo
(117)
sửa-sang
quân-t́nh.
Ưu-tiên
tuyển-mộ
thêm
binh;
Sắm thêm
khí-giới,
luyện
binh,
ngựa
thuần.
Sẵn-sàng
thuyền,
mă, đại
quân;
Kháng
Nguyên,
rồi sẽ
rần-rần
tiến
sang.
Mùa Xuân
Đinh-Hợi
(1287)
Thoát-Hoan;
(118)
Làm
Đại-Nguyên-Soái,
dẫn sang
Nước
ḿnh.
Hơn năm
chục
(50) vạn
quân-binh;
Bao gồm
thủy,
lục;
tinh-binh
dưới cờ.
Tướng-quân
phụ-lực
quân-cơ;
Là hai
tướng
Xích,
(119)
Tả-Thừa,
B́nh-Chương.
Mă-Nhi,
Phàn-Tiếp,
(120)
cùng
phường;
Tham-tri
Chính-sự;
tương-đương
quyền-hành.
Một bầy
“Nguyên
Tướng”
lưu-manh;
Xua
quân;
tính
đánh
tanh-bành
Việt-Nam.
Thoát-Hoan
dụng kế
(121)
phũ-phàng;
Phong
Trần-Ích-Tắc;
(121)
Vương-Nam
chư-hầu.
Đưa về
Đại-Việt,
làm cầu;
Tiến
sang
đánh
chiếm;
phủ đầu
An-Nam.
-----------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(117)-
“Lệnh
cho
Hưng-Đạo”:
Sau khi
nghe
Trần-Hưng-Đạo
trả lời,
vua
Nhân-Tông
cảm thấy
yên
ḷng;
đồng
thời ra
lệnh
(117)
cho Ngài
toàn
quyền lo
việc
điều
binh,
khiển
Tướng.
Sắp xếp
việc
quân-cơ.
Tuyển mộ
thêm
lính,
sắm thêm
binh-khí
và chiến
thuyền.
Huấn-luyện
binh mă…
để
sẵn-sàng
đại
quân…
hầu có
thể
kháng-cự
lại quân
xâm-lược
của
Mông-Nguyên,
do
Thoát-Hoan
lănh
đạo.
(118)-
“Mùa
Xuân
Đinh-Hợi
Thoát-Hoan”:
Và đến
tháng
hai mùa
Xuân năm
Đinh-Hợi
(1287),
Thoát-Hoan
được
Hốt-Tất-Liệt
phong
làm
Đại-Nguyên-Súy,
điều 50
vạn quân
sang
đánh
Việt-Nam;
được sắp
xếp để
hổ-trợ
dưới sự
chỉ-huy
của các
Tướng
A-Bát-Xích,
(119)
làm
Hành-Tỉnh
Tả-thừa.
Áo-Lỗ-Xích
(119)
làm
B́nh-Chương
Chính-Sự.
Ô-Mă-Nhi
và
Phàn-Tiếp;
(120)
làm
Tham-Tri
Chính-sự.
Đạo quân
của
Thoát-Hoan
đa phần
là quân
Mông-Cổ,
và quân
Nhà Hán;
tuyển từ
Bắc-bộ
Trung-Quốc;
sau khi
diệt
được
nước
Kim.
Ngoài ra
c̣n một
số quân
tuyển ở
Vân-Nam,
Giang-Tây,
Giang-Hoài,
Hồ-Quảng.
Số c̣n
lại rành
về thủy
chiến
th́
tuyển ở
các vùng
Nhai,
Quỳnh,
Đạm, Vạn
ở
Quảng-Đông…
gồm có
thêm 1
vạn 5
ngàn
người.
Lực-lượng
của
Thoát-Hoan
thật
hùng-hậu.
(121)-
“Thoát-Hoan
dụng kế
phủ-phàng”:
Đến ngày
03-09-1287(Đinh-Hợi),
Đạo quân
của
Thoát-Hoan
bắt đầu
xuất-chinh;
Thoát-Hoan
mượn cớ
đưa
Trần-Ích-Tắc
(121) về
Đại-Việt,
để phong
làm
An-Nam
Quốc-Vương.
Và là
một Nuớc
chư-hầu
của Nhà
Nguyên.
Mục đích
chính là
sang
đánh
chiếm
Đại-Việt
của ta.
Sau khi
chuẩn-bị
sẵn-sàng;
Thoát-Hoan
xuất
chiến;
(122)
với hàng
hùng
binh.
Đại quân
đến ải
Tư-Minh;
(122)
Chia làm
nhiều
ngă; xua
binh
tiến
vào.
Trịnh(bằng)-Phi,
Áo(Lỗ)-Xích
ào-ào;
Bộ binh
hai vạn,
tiến vào
Việt-Nam.
Ô(Mă)-Nhi,
Phàn-Tiếp
lộ
giang;
Bảy trăm
thuyền-chiến;
vài
vàn(vạn)
thủy-binh.
Thạch-lương,
Trương(Văn)-Hổ
lo rinh;
Hơn
bảy-mươi
vạn… cấp
binh
tiêu-dùng.
Nhân-Tông,
trước
thế
Nguyên
hùng;
(123)
Lệnh
Trần-Hưng-Đạo,
khoanh
vùng
phản
Nguyên.
(123)
Hưng-Vương
bố-trí
trận
tiền;
Trần(Nhật)-Duật,
Nguyễn-Khoái;
canh
miền
Lạng-Sơn.
Lê(Phụ)-Trần,
(Trần)Quốc-Toản
lực dồn;
Dẫn quân
ba vạn;
lũy-đồn
Nghệ-An.
Để canh
mặt biển
vẹn-toàn;
Ngài sai
Trần-Khánh(-Dư)
chận
ngang
Vân-Đồn.
Phần
Ngài,
toàn thể
lực dồn;
Phú-Sơn,
Vạn-Kiếp;
lũy-đồn
Quảng-Yên.
Để trọn
chiến-thuật
trận-tiền;
Ngài sai
quân
chận,
(124)
biên
miền
Việt-Hoa.
Ba đồn
pḥng-ngự
quân ta;
Gồm: Sa,
Từ,
Trúc;
(124)
đối là
Châu(Tư)-Minh.
Hưng-Vương,
lượng
trước
t́nh-h́nh;
Đại-binh
Hoan
nhập
Nước
ḿnh nơi
đây.
Ngài cho
quân
chắn
vùng
này;
Chận
đường
tiến
tới;
Nguyên
bầy
xâm-lăng.
Ngoài
ra, bến
cửa
Đại-Than;
(125)
Việt-Nam
quân,
Tướng;
vài ngàn
thủy-binh.
(125)
---------------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(122)-
Sau khi
đă
chuẩn-bị
xong
binh, mă
và 700
chiến-thuyền
mới đóng
cộng
thêm 120
chiếc
của
Hải-Nam;
Thoát-Hoan
đă lùa
hơn 50
vạn quân
sang
đánh
chiếm
Đại-Việt
của ta.
Đại quân
xuất
phát từ
Khâm-Châu,
Liêm-Châu
đến châu
Tư-Minh,
giáp
ranh với
Tỉnh
Lạng-Sơn
của
Đại-Việt.
Tại đây,
Thoát-Hoan
chia làm
3
cánh:
1. Cánh
thứ
nhất,
xâm nhập
từ
Vân-Nam
qua ngă
sông
Thao và
sông Lô
do
Aruq(A
Lư-Hải-Nha)
chỉ -huy
(không
rỏ quân
số).
2. Cánh
thứ hai,
là quân
chủ lực
do
Thoát-Hoan
lănh-đạo
cùng với
Trịnh-Bằng-Phi
(3 vạn),
Áo-Lỗ-Xích
(3 vạn);
dẫn theo
Trần-Ích-Tắc
vào ngă
đông Bắc
(Lộc-Châu).
Đến
Lộc-Châu,
Thoát-Hoan
sai
Trịnh-Bằng-Phi
và
La-Đáp-Nhi
đi vào
Aỉ
Chi-Lăng
rồi kéo
xuống.
C̣n
Thoát-Hoan
và đại
quân
tràn vào
Ải
Khả-Lợi;
tiếp
theo sau
đạo quân
tiên-phong
của
A-Bát-Xích.
3. Cánh
thứ 3,
do
Ô-Mă-Nhi
và
Phàn-Tiếp
chỉ huy
500
chiến-thuyền
đưa
thủy-quân
theo
đường
biển từ
Khâm-Châu
để xâm
nhập
Nước ta
vào hai
cửa biển
là
Vạn-Ninh,
Móng-Cái
(Nay là
Quảng-Ninh)
và Bến
Vân-Đồn
và Cửa
Lục.
Cùng với
đoàn
thuyền
do
Trương-Bạch-Hổ
chỉ-huy;
chở theo
70 vạn
thạch-lương,
tháp
tùng
theo sau
để cung
cấp
lương-thực
cho đoàn
quân
viễn-chinh
Mông-Nguyên.
(123)-
“Nhân-Tông,
trước
thế
Nguyên
hùng;”:
Đứng
trước 50
vạn đại
quân
hùng-hậu
của
Mông-Nguyên
do
Thoát-Hoan
lănh-đạo;
Vua
Trần-Nhân-Tông
cảm thấy
e-ngại;
Ngài
lệnh cho
Trần-Hưng-Đạo
phân
chia các
vùng
chiến-thuật;
để
canh-pḥng
và chống
lại quân
Nguyên.
Thừa
lệnh
Vua,
Trần-Hưng-Đạo
đă cắt
đặt các
Tướng
Lănh
chịu
trách
nhiệm
canh giữ
các vùng
như sau:
Trần-Nhật-Duật
và
Nguyễn-Khoái;
chỉ-huy
3 vạn
quân,
chống
giữ miền
Lạng-Sơn.
Lê-Phụ-Trần
và
Trần-Quốc-Toản,
chỉ-huy
3 vạn;
vào giữ
Nghệ-An.
Trần-Khánh-Dư,
chỉ huy
thủy-quân
ở mặt
Vân-Đồn.
C̣n
Trần-Hưng-Đạo
và đại
quân do
Ngài
chỉ-huy
th́ dồn
về đóng
ở trên
đỉnh
Phú-Sơn
và
Vạn-Kiếp,
Quảng-Yên.
Là
Trung-Tâm
Quân-Lực
để tiện
việc
điều
quân
tiếp ứng
cho các
nơi, v́
thuận
tiện
giao
thông
đường
thủy và
đường
bộ.
(124)-
“Ngài
sai quân
chận,
(124)
biên
miền
Việt-Hoa.”:
Tại vùng
biên-giới
Việt,
Hoa; đối
diện với
châu
Tư-Minh
của Tàu.
Hưng-Đạo-Vương
bố trí
quân tại
ba địa
điểm là:
Sa, Từ,
Trúc; để
chặn
đường
tiến
quân của
Thoát-Hoan.
(125)-
“Ngoài
ra, bến
cửa
(125)Đại-Than;”:
Tại Sông
Đại-Than
thuộc
Hải-Dương.
(Nay là
huyện
Nghi-Dương,
tỉnh
Kiến-An).
Hưng-Đạo-Vương
cũng bố
trí vài
ngàn
thủy-binh
để chống
lại quân
Mông
Nguyên.
Ngày
đầu,
Nguyên
tới
Vạn-Ninh;
(126)
Trần-Đa
mai-phục,
đánh
ch́m
thuyền
lương.
(126)
Ô(Mă)-Nhi
vây bủa
chống
đương;
Trần-Đa
lực yếu,
t́m
đường
rút lui.
Ô(Mă)-Nhi
thắng
thế đẩy
lùi;
Quân
Trần t́m
cách
tháo lui
ven
gành.
Ô(Mă)-Nhi,
truy-đuổi
thật
nhanh;
(127)
Quên
thuyền
lương-thực,
nghẽn
đành
theo
sau.
(127)
Đại quân
Hoan đến
Lộc-Châu;
(128)
Chí-Linh,
Phả-Lại;
đụng đầu
quân ta.
(128)
Quân
Trần lực
yếu,
(129)
dần-dà;
Lui về
Vạn-Kiếp,
(129)
để
mà chống
đương.
Trịnh(Bằng)-Phi,
Nguyên
tướng
t́m
phương;
Tiến về
Vạn-Kiếp,
chận
đường
quân ta.
Xích,
Nhi;
tiến
xuống
Hồng-Hà,
(130)
Mục-tiêu
Nguyên
chiếm;
chính là
Thăng-Long.
Hưng-Vương
thấy
giặc qúa
đông;
131)
Ngài lui
về giữ
Thăng-Long
Kinh-Thành.
(131)
Sai
người
tín-cẩn
thật
nhanh;
Dẫn
đường
“Xa-Giá”
thoát
Thành
Thăng-Long.
Thượng-Hoàng
cùng với
Nhân-Tông,
Lên xe
thẳng
tới;
chốt
pḥng
Hà-Nam.
Ô(Mă)-Nhi
truy-đuổi
chận
đàng;
(132)
Triều-Đ́nh
rời bỏ
Hà-Nam
xuống
thuyền.
Trở vào
Thanh-Hóa
tạm yên;
Ô(Mă)-Nhi
(132)
không
kịp; về
miền
Long-Hưng
(Thái-B́nh).
Sai
người
khai-quật
tử-cung;
(133)
Thiên-Lăng(133)
Tiên Tổ,
Triều-cung
nhà
Trần.
Giặc
Nguyên
đập nát
ầm-ầm;
Mộ bia
Hoàng-Tộc
Nhà Trần
tan-hoang!
----------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(126)-
“Ngày
đầu,
Nguyên
tới
Vạn-Ninh;”:
Trận đầu
tiên xẩy
ra vào
ngày
11-01-1288;
khi
Ô-Mă-Nhi
đưa thủy
quân
Nguyên
đến
Vạn-Ninh
(thuộc
Móng-Cái).
Gặp
tướng
Nhân-Đức-Hầu
Trần-Đa
(Có sách
chép là
Trần-Gia)
ở
Lạng-Sơn
gần đó
mai phục
vây
đánh; để
chận
đường
tiến của
Thủy
quân và
thuyền
chở
lương-thực,
vũ-khí
của quân
Nguyên
do
Trương-Văn-Hổ
vận-chuyển.
Trần-Đa
tuy đánh
đắm được
vài
thuyền
lương
của
địch.
Nhưng v́
lực yếu;
Trần-Đa
phải rút
lui để
bảo-toàn
lực-lượng.
(127)-
“Ô(Mă)-Nhi,
truy-đuổi
thật
nhanh;”
Về phần
quân
Nguyên,
v́
Ô-Mă-Nhi
ham truy
đuổi
chiến
thuyền
của
Trần-Đa
(Đại-Việt),
nên đoàn
thuyền
chở
lương
thực và
vũ khí
của
Nguyên
bị tắc
nghẽn
(127)
lại ở
phía
sau,
không
theo
kịp. Nên
về sau
bị thiếu
lương
thực…
(128)-
“Đại
quân
Hoan đến
Lộc-Châu;”:
C̣n đoàn
lục quân
của
Mông-Nguyên
khi tới
Lộc
Châu, đă
đụng đầu
với quân
Đại-Việt
và
Thoát-Hoan
đă đánh
chiếm
núi
Phả-Lại
và
Chí-Linh.
(129)-
“Quân
Trần lực
yếu,”:
V́ Quân
Đại-Việt
lực yếu,
nên phải
lui dần
về
Vạn-Kiếp
để cố
thủ.
Trong
khi đó,
quân của
Trịnh-Bằng-Phi
ở
Chi-Lăng
kéo
xuống
chận
đường;
không
cho quân
Đại-Việt
về
Vạn-Kiếp.
(130)-
“Xích,
Nhi;
tiến
xuống
Hồng-Hà,”:
Mặt
khác,
Thoát-Hoan
lại sai
thủy
quân
Nguyên
do
A-Bát-Xích
và
Ô-Mă-Nhi
chỉ-huy;
từ sông
Lục-Đầu
đánh
tràn
xuống
sông
Hồng-Hà;
với
mục-đích
đánh
chiếm
Kinh-Thành
Thăng-Long.
(131)-
“Hưng-Vương
thấy
giặc qúa
đông;”:
Trước
t́nh thế
đó,
Hưng-Đạo-Vương
kéo quân
về giữ
Thành
Thăng-Long.
Đồng
thời sai
người
tín-cẩn
dẫn
“Xa-Giá”
vua
Nhân-Tông
và
Thái-Thượng-Hoàng
lánh về
Hà-Nam.
Nhưng bị
Ô-Mă-Nhi
truy
đuổi
kịch-liệt,
nên Vua
và
Triều-Đ́nh
lại bỏ
Hà-Nam,
xuống
thuyền
vào
Thanh-Hóa
để tạm
lánh.
(132)-
“Ô(Mă)-Nhi
truy-đuổi
chận
đàng;”
V́ không
đuổi kịp
Nhân-Tông
và
Triều-Đ́nh,
Ô-Mă-Nhi
cho quân
quay đầu
trở lại
và về
miền
Long-Hưng
(Thái-B́nh),
rồi cho
đập nát
hết các
mộ bia
Hoàng-Tộc
Nhà Trần
để trả
thù và
khai
quật các
Thiên-Lăng
(133)
(Chiêu-Lăng
hay
Lăng-Tẩm)
của các
Tiên Đế
nhà
Trần,
lấy
tử-cung”(quan
tài)
(133)
lên,
nhưng để
đó không
đập phá.
C̣n Hoan
lui đến
Bắc-Giang;
(134)
Hải-Dương:
Vạn-Kiếp,
huyện
làng
Phả-Linh.
(134)
Nơi đây,
Hoan
triệu-hồi
binh;
V́ không
chiếm
được
Cung-Đ́nh
Thăng-Long.
Hưng(Đạo)-Vương,
khẩn báo
Nhân-Tông:
(135)
“Thoát-Hoan
thất-bại
tấn-công
Kinh-Thành.
(135)
Giặc
Nguyên
bị đánh
tanh-banh;
Lùa nhau
tháo
chạy;
khỏi
Thành
Thăng-Long.
Xin Ngài
vững
chí, an
ḷng;
Trở về
Cung-Điện
Thăng-Long
tức
thời.”
Nhân-Tông
nghe báo
đôi lời;
Cùng
Hoàng-Thái-Thượng;
tái hồi
Thăng-Long.
Phần
Hưng
(Đạo)
chuẩn-bị
tiến-công;
(136)
Thu quân
lập
trại,
canh-pḥng
Thoát-Hoan.
(136)
Mông-Nguyên
Vạn-Kiếp
lâm nàn;
(137)
Quân-lương
đă cạn,
Thoát-Hoan
điên
đầu!
(137)
Thuyền
lương
Trương(Văn)-Hổ
nơi
đâu…?
Lệnh Nhi
cấp-tốc,
t́m tàu
quân-lương.
Ô(Mă)-Nhi
tới-tấp
t́m
đường;
Thủy-quân
ra cửa
hướng
dương
Đại-Bàng.
Nhưng
Nhi gặp
phải
gian-nan;
(138)
Đụng
quân
Đại-Việt,
khi
ngang
Vân-Đồn.
(138)
Ô(Mă)-Nhi
cố-gắng
lực dồn;
Đẩy lui
Đại-Việt,
lũy-đồn
Trần(Khánh)-Dư.
Hắn
không
một chút
chần-chừ;
Thẳng
đường ra
biển,
chực-chờ
thuyền
lương.
Hay tin
Trần-Khánh(Dư)
thất
đương;
(139)
Nhân-Tông
nổi
giận;
vời
Vương về
triều.
(139)
Khánh-Dư
biết
tội,
nhưng
liều;
Xin cùng
đặc Sứ
đôi
điều:
“Hăy
khoan”:
(139)
---------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(134)-
“C̣n
Hoan lui
đến
Bắc-Giang;”:
Về phần
Thoát-Hoan,
sau cuộc
tấn công
vô-hiệu
vào
Cung-Đ́nh
Thăng-Long,
hắn đă
cho binh
lui về
trấn
giữa các
căn-cứ ở
Bắc-Giang.
Cũng như
Vạn-Kiếp
và
Phả-Lại,
Chí-Linh
ở
Hải-Dương.
(135)-
“Hưng(Đạo)-Vương,
khẩn báo
Nhân-Tông.”:
Sau khi
đại quân
của
Thoát-Hoan
rút lui
khỏi
Thăng-Long.
Hưng-Đạo-Vương
sai
người
vào
Thanh-Hóa
báo tin
cho Vua
Nhân-Tông
và
Thượng-Hoàng
biết và
các Ngài
lập-tức
hồi
Kinh.
(136)-
“Phần
Hưng
(Đạo)
chuẩn-bị
tiến-công;”:
Phần
Hưng-Đạo-Vương,
thu quân
đến lập
doanh-trại
ở gần
Vạn-Kiếp;
chuẩn-bị
đối đầu
với quân
Nguyên.
(137)-
“Mông-Nguyên
Vạn-Kiếp
lâm
nàn;”:
V́ quân
Thoát-Hoan
ở
Vạn-Kiếp
đă gần
cạn
lương-thực.
Hắn điên
đầu, sai
Ô-Mă-Nhi
đem
thủy-quân
ra cửa
Đại-Bàng
hướng
đông mặt
trời
mọc, để
đón
thuyền
lương
của
Trương-văn-Hổ.
(138)-
“Nhưng
Nhi gặp
phải
gian-nan;”:
Nhưng
Ô-Mă-Nhi
đă gặp
trở-ngại;
đụng đầu
với quân
Đại-Việt
do
Nhân-Huệ
Vương
Trần-Khánh-Dư
chỉ huy
tại
Vân-Đồn
chận
đánh.
Mă-Nhi
dốc toàn
lực để
tấn
công…
Trần-Khánh-Dư
thất-thế
phải lui
quân.
Mặc cho
Mă-Nhi
thẳng
đường ra
biển để
đón
thuyền
lương và
vũ-khi
do
Trương-Văn-Hổ
chuyển
tải.
(139)-
“Hay tin
Trần-Khánh(Dư)
thất
đương;”:
Khi hay
tin
Nhân-Hầu
Vương
Trần-Khánh-Dư
thất bại
tại
Vân-Đồn,
vua
Nhân-Tông
sai Sứ
vời Ông
về để
trị tội.
Nhưng
Khánh-Dư
thưa với
Sứ-Thần
rằng:
(139)
“Xin hăy
khoan
cho Tôi
thêm
thời
gian để
lập công
chuộc
lỗi. Tôi
hứa sẽ
đánh tan
đoàn
thuyền
lương
của bọn
Mông-Nguyên,
do
Trương-Văn-Hổ
chuyên
chở.” Và
Sứ-Thần
đă chuẩn
thuận
theo lời
yêu cầu
của
Khánh-Dư.
“Để tôi
có gắng
minh
oan;
Lập công
chuộc
lỗi; bắt
toàn
thuyền
lương.”
Ô(Mă)-Nhi
thắng
thế
không
lường;
Gặp
Trương-Văn-Hổ;
thẳng
đường
hồi
tiên.
(140)
Mặc Nhi
qua ải
trận-tiền;
Dư
(139)
canh cửa
Lục; chờ
thuyền
quân-lương.
V́
Trương-Văn-Hổ
không
lường;
Bị Dư
(139)
chận
đánh;
thuyền
lương
đắm
ch́m.
Quân
Nguyên
mất hết
niềm
tin;
Riêng
Trương-Văn-Hổ;
trốn t́m
Quỳnh-Châu.
Khánh-Dư
lập được
công
đầu;
(141)
Đánh
ch́m hầu
hết
thuyền
tàu
Nguyên-Mông.
Tin vui,
khẩn báo
Nhân-Tông;
Thượng-Hoàng
mừng-rỡ,
ghi công
Dư-Trần.
(141)
Đồng
thời nói
với
Hưng-thần:
“Mông-Nguyên
chỉ
mạnh;
cốt phần
quân-lương.
Nay
lương,
vũ-khí…
bị
bương(mất
hết);
Thoát-Hoan
nghe tỏ;
sẽ lường
tháo
lui.”
Hưng-Vương
nghe nói
mừng
vui;
(142)
Thả tù
Nguyên
tặc;
bùi-ngùi
báo
Hoan:
“Rằng
thuyền
lương-thảo
nát-tan;
Thủy-quân
bị giết;
vài ngàn
hàng
binh.
Quân
Trần làm
chủ
t́nh-h́nh;
Tướng
Trương-Văn-Hổ,
tự ḿnh
thoát
thân.”
Nghe
tin,
Hoan bị
bần-thần;
(143)
Lệnh cho
Quan,
Tướng;
rút quân
quay về.
(143)
Phần
Nhi, vẫn
cứ ngủ
mê;
Chờ
thuyền
lương
tới,
chẳng hề
thấy
đâu.
Ô-Nhi
cảm thấy
điên
đầu;
Xua quân
đánh phá
tuyến-đầu
An-Hưng.
-----------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(140)-
Đúng như
dự-đoán
và
kế-hoạch
của
Trần-Khánh-Dư.
Sau khi
gặp được
đoàn
thuyền
của
Trương-Văn-Hổ,
Ô-Mă-Nhi
đă cho
thủy-quân
quay lại
và đi
vào cửa
sông
Vân-Đồn
trước.
Phần
Trần-Khánh-Dư,
(704)
Ông điều
quân
phục-kích,
chờ cho
đoàn
thủy-quân
của Nhi
đi qua.
Đến khi
đoàn
thuyền
lương
của
Trương-Văn-Hổ
xuất-hiện,
Khánh-Dư
(704) ra
lệnh cho
quân vây
đánh.
Hầu hết
thuyền
lương và
vũ-khi
của
Mông-Nguyên
đều bị
quân
Khánh-Dư
tịch thu
và đánh
ch́m.
Quân
Nguyên
chết
đuối rất
nhiều.
Số tàn
quân c̣n
lại bị
bắt làm
tù-binh
hoặc t́m
đường
tẩu
thoát.
Riêng
Trương-Văn-Hổ
sang một
chiếc
thuyền
nhỏ;
trốn về
Quỳnh-Châu
thuộc
Quảng-Đông.
(141)-
Sau khi
đại
thắng
trận
Vân-Đồn,
Trần-Khánh-Dư
liền sai
người
báo tin
cho Vua
Nhân-Tông
biết:
“Đă dẹp
tan đoàn
tàu
thuyền
chở
lương-thực
và
vũ-khí
của
Mông-Nguyên;
do
Trương-Văn-Hổ
chỉ-huy.
Đồng
thời
tịch-thu
lương-thực,
vũ-khí,
rồi đánh
ch́m hầu
hết tàu
thuyền
của địch
quân và
bắt làm
tù-binh
rất
nhiều.
Tàn quân
c̣n lại
đă tẩu
thoát
cùng với
Trương-Văn-Hổ.”
Khi
Thái-Thượng-Hoàng
hay tin
Trần-Khánh-Dư
đă lập
được
công
lớn,
Ngài
không
những đă
xá tội
Khánh-Dư
bại trận
lần
trước;
mà c̣n
khen
thưởng
Ông.
Đồng
thời c̣n
nói với
Trần-Hừng-Đạo:
“Hăy thả
đám
tù-binh
Mông-Nguyên,
để họ về
báo tin
cho
Thoát-Hoan
biết là
đoàn
thuyền
chở
lương-thực,
vũ-khí,
quân-trang,
quân-dụng
của họ,
đă bị
quân ta
tịch-thu
và đánh
ch́m hầu
hết. Tin
này sẽ
làm cho
tinh-thần
họ
sa-sút,
tuyệt-vọng;
không
c̣n sức
chiến
đấu nữa
và sẽ
rút quân
về.”
(142)-
Hưng-Đạo-Vương
nghe
Thượng-Hoàng
nói, Ông
cảm thấy
thật vui
trong
ḷng và
đă
thi-hành
như lời
Thượng-Hoàng
bàn thảo
và
căn-dặn.
(143)-
Và qủa
thật,
khi
Thoát-Hoan
nghe tin
quân
ḿnh đại
bại,
chết-chóc,
mất hết
tàu
thuyền,
lương-thực,
vũ-khí,
quân-trang
và
quân-dụng…
Hắn đă
trở nên
thối
chí.
Quan,
Tướng và
binh sĩ
tuyệt
vọng v́
không
c̣n
lương,
lại thêm
ốm đau
bệnh
tật… Ai
nấy đều
xôn-xao
muốn trở
về Tàu.
Riêng
Ô-Mă-Nhi
cứ măi ở
Vạn-Kiếp
chờ đoàn
thuyền
lương từ
Vân-Đồn
tới,
nhưng
không
thấy
đâu. Hắn
liền kéo
quân ra
đánh phá
đồn
An-Hưng
ở
Quảng-Yên.
Sau đó
lại rút
về
Vạn-Kiếp.
Để hợp
cùng với
Thoát-Hoan
bàn thảo
kế-hoạch
lui
quân.
Rồi về
Vạn-Kiếp
tập-trung;
Cùng
Hoan
liên-kết,
liệu-chừng
tháo
lui.
(143)
Thoát-Hoan
quyết-định
đường
lùi;
(143)
Chia làm
hai ngă,
(143)
rút lui
về Tàu.
Ô-Nhi,
Phàn-Tiếp
phải
mau;
Lui quân
đường
thủy,
tuyến-đầu
Đằng-Giang.
Trịnh-Phi,
Trương-Quán
sẵn-sằng;
Dẫn quân
đường
bộ;
dễ-dàng
trợ
binh.
Hưng-Vương
dơi sát
t́nh-h́nh;
(144)
Điều
quân
phục-kích,
liệu
t́nh
tấn-công.
Lệnh cho
Nguyễn-Khoái
đường
sông:
(144)
“Đóng
sâu cọc
nhọn,
bịt
đồng,
sắt
gang.
Dụ cho
thuyền
địch đi
ngang;
Triều
lên, rút
chạy;
xin hàng
giả
thua.
Đợi khi
triều
xuống,
ập lùa;
Xông lên
giết
sạch,
không
chừa một
tên.”
Khoái
vương
nhận rỏ
lệnh
truyền.
Sai quân
thực-hiện,
nguyên-tuyền
lệnh
ban.
Ô-Nhi,
Phàn-Tiếp
lơ-làng;
Không
hay
mưu-kế;
Khoái
đang vây
ḿnh.
Về đường
tháo
chạy bộ
binh;
(145)
Hưng sai
Lăo,
Nghĩa;
phục
binh
Ải-Bàng
(145)
Chờ khi
Hoan tặc
đi
ngang;
Ùa ra
tập-kích,
chận
đàng
Nguyên-Mông.
Sau khi
bố-trí
tấn-công;
Hưng hay
Nhi,
Tiếp;
tới sông
Bạch-Đằng.
(146)
Hô quân
truy-đuổi
thật
hăng;
Tới
Giang,
trỏ
(sào)
xuống
thề
rằng:
“Diệt
Nguyên!”
(146)
“Trận
này
không
dẹp được
yên;
Sẽ không
trở lại
vùng
miền
Hóa-Giang…!”
------------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(143)-
“Thoát-Hoan
quyết-định
đường
lùi;”:
Thoát-Hoan
sau khi
thảo
luận với
Ô-Mă-Nhi
và các
Tướng-Lănh;
hắn
quyết
định
chia làm
hai ngă
để rút
quân về
Tàu.
Đường
sông; do
Ô-Mă-Nhi
và
Phàn-Tiếp
dẫn thủy
quân qua
ngă sông
Bạch-Đằng.
C̣n
đường
bộ, th́
sai
Trịnh-Bằng-Phi
và
Trương-Quán,
dẫn binh
qua ngă
Đại-Bàng
thuộc
Lạng-Sơn,
để
hổ-trợ
cho
Thoát-Hoan
rút lui
về châu
Tư-Minh
của
Tàu.
(144)-
Hưng-Đạo-Vương
đă cho
người
theo dơi
sát mọi
kế-hoạch
rút quân
của
Thoát-Hoan.
Nên về
đường
sông,
Ngài đă
sai
Tướng
Nguyễn-Khoái,
(710)
dẫn quân
đến
phục-kích
ở
thượng-lưu
sông
Bạch-Đằng.
Cho
người
làm cọc
có đầu
nhọn
được bịt
bằng
đồng hay
sắt; rồi
đóng sâu
xuống
ngăn
ḷng
sông.
Chờ khi
thủy
triều
lên, th́
dụ địch
đi qua
khúc
sông có
đóng
cọc. Và
khi
triều
xuống,
th́ quân
phục-kích
ào ra
đánh
đuổi
quân
Nguyên.
Nếu có
thể, th́
giết
sạch
không
chừa tên
nào. Và
Tướng
Nguyễn-Khoái
đă
chấp-hành
đúng như
lệnh
truyền.
Trong
khi
Ô-Mă-Nhi
và
Phàn-Tiếp
không hề
hay biết
về âm
mưu này
của
Đại-Việt.
(145) Về
đường
bộ,
Hưng-Đạo-Vương
sai
Tướng
Phạm-Ngũ-Lăo
và
Nguyễn-Chế-Nghĩa;
dẫn quân
lên
phục-kích
tại Ải
Đại-Bàng,
Lạng-Sơn.
Chờ khi
Thoát-Hoan
đi qua;
th́ xông
ra đánh
để chận
đường
rút lui
cuả quân
Nguyên-Mông.
(146)
Sau khi
bố trí
xong
kế-hoạch
phục-kích
quân
Nguyên
của
Thoát-Hoan
rút theo
đường
sông
cũng như
đường
bộ.
Hưng-Đạo-Vương
hay tin;
thủy
quân của
Ô-Mă-Nhi
và
Phàn-Tiếp
đă tiến
tới
khu-vực
sông
Bạch-Đằng.
Ngài
liền
điều
quân
Đại-Việt
đuổi
theo
thật
nhanh,
và hô
quân hăy
cùng trỏ
xuống
sông
Hóa-Giang
(146)
thề
rằng:
“Trận
này
không
phá được
giặc
Nguyên,
sẽ không
trở lại
khúc
sông này
nữa!”
Quan,
quân
Đại-Việt
sẵn-sàng;
(147)
Tinh-thần
quyết
chiến,
đánh tan
giặc
Tàu.
(147)
Tướng,
binh
hăng-hái
cùng
nhau;
Hô mau
tiến tới
tuyến-đầu
Đằng-Giang.
(148)
Đang khi
di-chuyển
giữa
đàng;
Nghe tin
Nhi,
Tiếp;
(148)
Đằng-Giang
theo
ḍng.
Bổng gặp
Nguyễn-Khoái
ngăn
sông,
Chúng
liền
tiến
đánh;
không
pḥng
mưu sâu.
Nhằm khi
thủy-triều
lên mau;
Mênh-mông
sóng
nước;
đoàn tàu
đuổi
theo.
Thủy
Nguyên,
gặp thế
hiểm-nghèo;
(149)
Không hề
hay
biết,
đường
theo đă
cùng.
Nhằm khi
triều
xuống,
Khoái
tung;
Toàn
quân
phục-kích
khắp
vùng
xông ra.
Bủa-vây
Nguyên
tặc
gian-tà;
Phản-công
tới-tấp,
Nguyên
đà rút
lui.
Hưng-Vương
ùa tới
dập-vùi;
(150)
Máu quân
Nhi,
Tiếp;
tanh
mùi, đỏ
sông.
(150)
Quân
Nguyên
bị giết
thật
đông;
Tàu
thuyền
vướng
cọc, đắm
trong
hận-thù.
Bốn trăm
thuyền
chiến bị
thu;
Tướng
Nguyên:
Nhi,
Tiếp; bị
tù nhục
thân!
Thêm
Cơ-Ngọc,
Lệ;
Nguyên-thần;
Muôn
quân bị
bắt, xác
thân
ră-rời.
Thủy
quân,
Hưng dẹp
tan rồi;
Tháng ba
Mậu-Tư,
(1228)
muôn đời
danh
vang!
Hoan
nghe;
quân-thủy
đă tan…
(151)
Lệnh
quân
đường
bộ; rút
ngang
Nội-Bàng.
(151)
Bằng-Phi,
Xích,
Xích,
Ngọc,
Quan;
Dẫn quân
qua Ải
Nội-Bàng
bị vây.
(151)
--------------------------------------------
GHI CHÚ:
(147)- Quân Đại-Việt với tinh-thần quyết chiến phải diệt tan quân
Mông-Nguyên,
đă cùng
nhau
hăng-hái
tiến
nhanh
đến khu
vực sông
Bạch-Đằng-Giang.
(148) Đang khi di chuyển giữa đường, th́ nhận được tin thủy-quân
của
Ô-Mă-Nhi
và
Phàn-Tiếp
đă tiến
đến khúc
sông
Bạch-Đằng;
(148)
nơi
Tướng
Nguyễn-Khoái
cho quân
đóng cọc
dưới
ḷng
sông. Và
Ông đă
đưa
thủy-quân
ra dụ
quân
Nguyên,
rồi giả
thua rút
lui.
Ô-Mă-Nhi
và
Phàn-Tiếp
liền
thúc
binh
đuổi
theo
giữa
ḍng
sông
nước
mênh-mông,
không hề
hay biết
đă mắc
phải mưu
của
thủy-quân
Đại-Việt.
(149) V́ không biết được âm-mưu của quân Đại-Việt, đă đóng cọc có
đầu nhọn
bịt sắt
ngang
qua ḍng
sông để
gài bẫy,
nên thủy
quân
Nguyên
đă gặp
cảnh
hiểm
nghèo;
bị dồn
vào thế
đường
cùng.
Nên khi
quân
phục-kích
của
Nguyễn-Khoái
khắp nơi
ùa ra
vây đánh
tứ bề,
thủy
quân
Nguyên
đă không
trở tay
kịp đành
phải rút
lui…
(150)- Nhưng không ngờ lại gặp quân của Hưng-Đạo-Vương ùa tới
tiếp-viện,
tấn-công
tới-tấp…
Nên hàng
chục
ngàn
quân của
Ô-Mă-Nhi,
Phàn-Tiếp
bị giết
và chết
đuối.
Tàu
thuyền
th́ bị
vướng
cọc
nhọn,
đâm
thủng và
bị đắm
tứ-tung.
Máu quân
binh bị
giết
chảy
loang đỏ
khắp
ḍng
sông.
Hơn 400
thuyền
bị
tịch-thu.
Các
Tướng:
Ô-Mă-Nhi,
Phàn-Tiếp,
Cơ-Ngọc,
Tích-Lệ
và hàng
chục
ngàn
thủy
quân đều
bị bắt
làm
tù-binh.
Đây là
chiến
tích
lẫy-lừng,
muôn-đời
Danh
vang; do
Hưng-Đạo-Vương
lănh-đạo
chỉ-huy;
cùng với
các
Tướng-Lănh
và quân
Đại-Việt,
đă dẹp
tan
toàn-bộ
lực-lượng
Thủy-quân
của nhà
Nguyên;
trên
sông
Bạch-Đằng
vào
tháng
ba, Năm
Mậu-Tư
(1288).
(151-) Khi Thoát-Hoan hay tin Thủy-quân Nguyên; do Ô-Mă-Nhi và
Phàn-Tiếp
chỉ-huy;
đă bị
đại bại
trên
sông
Bạch-Đằng.
Hắn ra
lệnh cho
các
Tướng:
Trịnh-Bằng-Phi,
A-Bát-Xích,
Áo-Lỗ-Xích,
Trương-Ngọc
và
Trương-Quan
(hay
Quân);
dẫn toàn
lực
bộ-binh
rút về
Tàu qua
Ải
Nội-Bàng
thuộc
Lạng-Sơn).Nhưng
Hoan đă
không
ngờ bị
quân
Đại-Việt
phục-kích
bủa vây.
Bởi
Phạm(Ngũ-Lăo),
phục-kích
nơi đây,
(152)
Điều-quân
tiến
đánh,
“Nguyên
bầy”
tan-hoang.
Trương-Quân,
bảo hậu
(hộ-tống)
Thoát-Hoan;
Bị Phạm
chém
chết,
giữa
đoàn tàn
binh.
Thoát-Hoan,
cảm thấy
thất-kinh;
Cho dù
thoát
được;
Ải-binh
Nội-Bàng.
Đại-quân
Nguyên-tặc;
vỡ-tan…
Mười
phần,
tổn sáu;
ngơ-ngàng
lùi
binh.
Đang
lui,
Hoan lại
hay tin;
(153)
Nữ-Nhi,
Ki-Cấp;
Việt-binh
lan-tràn.
Ầm-ầm,
quân
Việt reo
vang;
Đuổi
theo,
thúc vó;
Hoan
càng
lo-âu.
Lệnh
A-Xích,
Ngọc đi
đầu;
(153)
C̣n tên
Lỗ-Xích;
đi sau
canh-pḥng.
Giữa
đường,
bị Việt
tấn-công;
(154)
Mưa tên
xối-xả,
tử-vong
đầy
đàng.
(154)
Xác thù,
từng
đống
ngổn-ngang;
Trương-Ngọc,
Bát-Xích;
Tướng
tàn
tử-thi…!
Chỉ c̣n
bại
Tướng
Bằng-Phi;
(155)
Giúp
Hoan
thoát
khỏi
biên-thùy
(155)
Việt,
Trung.
Riêng
tên
Lỗ-Xích,
(156 )sau
cùng;
Loanh-quanh
thu
nhặt;
khắp
vùng tàn
quân.
(156 )
Thương
binh
lê-lết
tấm
thân;
Theo
Hoan
thất-thểu,
dần-dần
Yên-Kinh.
(156 )
Sau khi
tái-lập
ḥa-b́nh;
(157)
Giặc
Nguyên
quét
sạch,
nội t́nh
chấn-hưng.
Hưng
vương
Quốc-Tuấn
vui
mừng;
Thỉnh
mời Xa
Giá,
tưng-bừng
hồi Kinh
Long-Hưng,
dừng
trước
Chiêu-Linh;
(158)
Hiến-phù
lễ bái;
“tù h́nh
Tướng
Nguyên”.
-------------------------------------------------------
GHI CHÚ:
(152)- “Bởi Phạm(Ngũ-Lăo), phục-kích nơi đây,”: V́ các Tướng
Phạm-Ngũ-Lăo
và
Nguyễn-Chế-Nghĩa
đă được
lệnh
Đại-Vương
Trần-Hưng-Đạo,
dẫn quân
phục-kích
Thoát-Hoan
và
đại-quân
Nguyên
tại
địa-điểm
Nội-Bàng
này. Và
khi đoàn
quân của
Thoát
Hoan
đến, đă
bị quân
Đại-Việt
đánh
tan-tành…
Và tướng
Trương-Quân
đi sau
để
bảo-vệ
Thoát-Hoan,
đă bị
Tướng
Phạm-Ngũ-Lăo
chém
chết.
Mặc dù
Hoan đă
chạy
thoát
được qua
Ải phục
binh ở
Nội-Bàng.
Nhưng
đại quân
Nguyên
đă bị
quân
Đại-Việt
đánh
tan,
mười
phần;
mất tới
sáu.
(153)- “Đang lui, Hoan lại hay tin;”: Và khi đang lui quân,
Thoát-Hoan
lại được
tin, tại
các Ải
Nữ-Nhi
và núi
Ki-Cấp;
có rất
nhiều
quân
Đại-Việt
phục
kích.
Thêm vào
âm điệu
reo ḥ
vang-dội
của đơàn
quân
Đại-Việt
thúc vó
ngựa
đuổi
theo…
khiến
Thoát-Hoan
cảm thấy
hoảng-hốt
lo-lắng.
Hắn liền
sai hai
tướng
A-Bát-Xích
và
Trương-Ngọc
đi đầu
mở
đường.
C̣n
Áo-Lỗ-Xích
đi sau
cùng để
chận
đường
phần nào
sự
tiến-công
của quân
Đại-Việt.
(154)- “Giữa đường, bị Việt tấn-công;”: Tuy nhiên, khi đoàn quân
của Hoan
đi ngang
khu vực
Ải
Nữ-Nhi
và núi
Ki-Cấp,
th́ bị
quân
Đại-Việt
phục
kích
trên các
điểm
cao,
dùng tên
độc bắn
xối-xả…
khiến
đại quân
Nguyên
chết nằm
la-liệt,
ngổn-ngang
và chất
thành
đống.
Riêng
hai
tướng
Trương-Ngọc
và
A-Bát-Xích
bị tử
vong
trong
trận
này.
(155)- “Chỉ c̣n bại Tướng Bằng-Phi;”: Và duy chỉ c̣n lại tướng
Trịnh-Bằng-Phi,
hộ tống
Thoát-Hoan
trốn
khỏi Ải
Đan-Kỹ,
Lộc-Châu;
rồi lẻn
đi đường
tắt qua
biên
thùy
Việt-Trung
về châu
Tư-Minh
bên
Tàu.
(156)- “Riêng tên Lỗ-Xích,”: Riêng tướng Áo-Lỗ-Xích đi sau, chạy
thoát
được và
không bị
giết.
Nên hắn
đă thu
góp tàn
quân,
rồi chạy
theo
Thoát-Hoan
về
Tàu.
(157)- “Sau khi tái-lập ḥa-b́nh;”: Sau khi dẹp tan giặc Mông-Nguyên,
ḥa b́nh
được lập
lại.
Hưng-Đạo-Vương
Trần-Quốc-Tuấn
cảm thấy
rất vui
mừng và
nghĩ
ngay đến
việc
phục-hưng
Đất
Nước.
Nên Ngài
đă đưa
quân về
Thái-B́nh
thỉnh
mời vua
Nhân-Tông,
Thái-Thượng-Hoàng
và
Triều-Đ́nh
về lại
Kinh
Thành
Thăng-Long.
(158)- “Long-Hưng, dừng trước Chiêu-Linh;”: Trên đường về Kinh,
khi đi
ngang
qua phủ
Long-Hưng
(Thái-B́nh),
nơi có
các Đền
Miếu và
Lăng-Mộ
(Chiêu-Linh
hay
Chiêu-Lăng)
tôn thờ
Linh-Hồn
các Tiên
Vương
nhà
Trần.
Vua
Nhân-Tông
ra lệnh
đoàn
người
ngừng
lại và
bắt các
Tướng
nhà
Nguyên
là:
Ô-Mă-Nhi,
Phàn-Tiếp,
Cơ-Ngọc
và
Tích-Lệ…
là những
tù binh
h́nh-sự.
Phải đến
đứng
rước các
Lăng-Mộ,
để làm
Lễ
Hiến-Phù.
Tôn kính
và bái
phục
vong-linh
các Tiên
Vương
Trần-Triều;
để mừng
chiến
thắng.
Ô, Phàn,
Cơ,
Tích;
lệnh
truyền:
(158)
“Gập
thân
tôn-phục;
Tổ Tiên
Trần-Triều.”
(158)
Về Kinh,
hạnh-phúc
trăm
điều…!
Vua sai
Quan,
Tướng;
Vương-Triều
khao
quân.
(159)
“Thái-B́nh
Diên-Yến!”
(159)
cùng
dân;
Ba ngày
vui
thỏa;
quân,
dân reo
ḥ.
Thái-Tông
cảm-hứng
thành
Thơ;
(160)
Dâng lên
Tiên-Tổ,
“Cơi-Bờ
Nước
Nam”:
“Quê-Hương,
thạch mă
dọc
ngang;
(160)
Sơn-Hà,
thiên cổ
vững-vàng
kim-âu!”
Trước
khi luận
tội,
công-đầu;
Vua sai
Đỗ(Thiên)-Thứ
sang Tàu
hiệp-thương.
(161)